Nét Đẹp Việt Nam

 Quên mật khẩu
 Register
Tác giả: anhz27
In Chủ đề trước Tiếp theo

Thằng Côn (truyện dài) - Duyên Anh

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2009 22:06:57 | Chỉ xem của tác giả
11
- Tứ tử trình làng, ngũ tử cướp cái, hở ?
- Không, tứ tử làm lấy mà ăn.
- Tám đen ăn hết tám đỏ ăn phu đấy nhé !
- Ừ.
- Cấm tướng sĩ tượng đi đầu.
- Mỗi quân mấy đẹt đây ?
- Hai.
- Đẹt ở đâu ?
- Ở mũi.
- Rồi, bắt cái đi.
- Tượng. Tam tượng, cái Côn.
    Luyến chia bài. Tết nhất không còn ai giận nhau nữa. Mùa xuân là mùa xum họp, đoàn tụ. Thúy đã theo mẹ đến nhà Côn chúc tết gia đình nó. Bác Thụy mừng tuổi Côn mười đồng. Và Thúy mừng tuổi nó một nụ cười. Nụ cười làm thân của Thúy khiến Côn nóng bừng tai dù đầu xuân vẫn còn lạnh lắm. Mùa đông không chịu đi. Nó nằm ăn vạ mùa xuân. Mồng một tết thiếu mưa bụi rây trong không gian. Mà chỉ có những hạt mưa hắt vào mặt giá buốt. Chưa biết tháng mấy mùa đông mới biến mất. Cá ở hồ Phúc Khánh đã chết cóng, nổi lềnh bềnh. Nhưng Côn chẳng thấy lạnh từ lúc Thúy nhìn nó, mỉm cười. Mùa xuân chắc ấm áp với riêng thằng Côn. Côn tháo cái lồng chim cu gáy “mừng tuổi” Thúy. Con bé vui vẻ nhận ngay. Thế là Côn quên phát xít Nhật, quên chuyện giang hồ Hà Nội. Sự hồn nhiên vừa bỏ nó đi được một quãng, lại trở về cùng nó, cùng mùa xuân của đất trời. Côn rủ Luyến tới nhà Thúy chơi tam cúc. Cả Ngọc nữa, bàn tam cúc đủ bốn chân.
- Cái Côn, gọi đi chứ !
    Thúy giục. Con nhà Côn liếc bài Thúy. Nó ngồi cạnh Thúy, lại khéo giả vờ nên nó biết rõ bài của Thúy. Côn rút ra một cây bài, đặt xuống chiếu :
- Một cây.
    Cả làng cùng rút một trong tám cây bài úp mặt có vẽ hình xuống chiếu. Côn lật cây bài lên :
- Lính khố đen !
    Lính khố đen là tốt đen. Tam cúc gồm ba mươi hai quân bài giấy cứng. Mười sáu quân đen, mười sáu quân đỏ. Tướng ông chỉ huy mười sáu quân đỏ : đôi sĩ điều, đôi tượng điều, đôi xe điều, đôi pháo điều, đôi mã điều và năm tên tốt điều. Tướng bà chỉ huy mười sáu quân đen : đôi sĩ thâm, đôi tượng thâm, đôi xe thâm, đôi pháo thâm, đôi mã thâm và năm tên tốt thâm.
    Hai cây đỏ giống nhau kết thành một đôi. Xe pháo mã đen hay đỏ là bộ ba. Tướng sĩ tượng cũng vậy. Ai cầm bài cuối cùng còn tướng ông, tướng bà mà làng gọi hai cây thì tướng ông, tướng bà đi … “tháo tỏng”. Hai cây đen hay ba cây đen sau rốt, làng không ai bắt được, người đánh “ăn hết” tức là ăn gấp đôi tiền làng. Bọn thằng Côn không bao giờ kêu đúng tên con bài cả. Chúng nó đặt tên cho từng quân.
- Vần cánh. Thúy lật bài lên.
    Thúy hồi hộp nói :
- Xe đen.
    Ngọc đẩy con bài vào giữa :
- Chui.

    Luyến khoái chí :
- Mừng quá, đây xe ông Lê Văn Định sơ đỏ. Xe đỏ đè xe đen.
    Thúy úp con xe đen vất lên con bài chui của Ngọc. Luyến ta hí hửng :
- Đôi cây.
   Luyến chờ làng đặt bài xuống chiếu, lật lên :
- Voi đỏ.
    Luyến lại ăn. Nó gọi tiếp :
- Một.
    Luyến ra tướng bà bị tướng ông của Côn bắt đúng. Côn cười :
- Hì hì, tướng ông bắt tướng bà ăn vụng. Chui đi, Luyến !
    Côn khiêu khích Luyến :
- Một nữa :
    Con sĩ điều bây giờ là chúa tể. Côn ăn luôn và gọi, ba cây. Nó vật bài liền vì xe pháo mã điều mất hai tướng, kể như vô địch. Mỗi người phải ăn hai cây mới hòa. Luyến ăn ba cây. Nó vất sang chỗ Ngọc một cây :
- Hai cái đẹt mũi.
    Côn vất tiếp cho Ngọc một cây :
- Hai cái đẹt mũi.
    Thúy nhanh nhảu :
- Côn cho Thúy nợ bốn đẹt nhé, Côn nhé ?
    “Côn nhé”, hai tiếng ấy sao mà êm ái thế. Côn lặng người đi. Nó không trả lời Thúy. Luyến đã vơ một nắm bài, xếp gọn, cầm trên tay. Nó hạch Ngọc :
- Ngẩng mặt cao cao một tí.
    Ngọc năn nỉ :
- Cho nợ đi.
    Luyến lắc đầu :
- Vừa mới được ván đầu, phải mở hàng chứ.
    Và nó đẹp xấp bài cứng vào mũi Ngọc hai cái nên thân. Ngọc xoa mũi :
- Lát thua đừng có ăn vòi nghe chưa.
    Luyến bĩu môi :
- Đây đâu thèm ăn vòi.
    Nó nheo mắt :
- Đến phiên mày đẹt, Côn ạ ?
    Côn vơ tất cả bài lại, trang lia lịa :
- Bắt cái đi Luyến, Côn cho nợ :
    Bốn đứa tiếp tục chơi tam cúc. Côn đỏ, được hoài. Thúy nợ Côn đến một trăm cái đẹt. Ngọc đã trả thù Luyến. Nhưng sau đó, chúng nó giao hẹn lúc nào thôi hãy đẹt một lượt. Thúy cũng nợ Luyến hai chục đẹt rồi. Gần tối, Ngọc phải về nên bàn tam cúc tan. Chơi ba người càng thích nhưng Luyến đã chán đánh tam cúc ăn đẹt. Nó muốn chuồn về nhà ngồi đánh ké bất với anh chị nó ăn tiền cơ. Côn rủ Ngọc ở lại, con bé khăng khăng đòi về. Luyến tính sổ nợ. Nó giơ cỗ bài :
- Thúy, giơ mũi ra ! Đây đẹt nhẹ thôi.
    Côn nắm lấy cỗ bài :
- Mày còn tao mười lăm đẹt, tao trừ cho Thúy.
    Luyến ngó Côn, cười xỏ :
- Mày nợ gì nó mà đòi trừ ? Ờ, mày đẹt ông mười lăm cái đi, ông đẹt lại nó hai mươi cái. Mày bảo mày ghét con gái mà ?

    Côn chối bai bải :
- Tao bảo bao giờ ?
    Luyến lượm hạt dưa, cắn tanh tách :
- Năm ngoái, mày quên à ?
    Côn cứng họng, chẳng biết nói sao. Cuối cùng, nó cù nhầy :
- Hòa cả làng. Giao hẹn rồi.
    Luyến cãi :
- Giao hẹn gì ?
- Đang chơi bỏ về không được đẹt.
    Luyến đứng dậy :
- Từ nay không chơi với mày nữa, mày ăn gian cho con Thúy.
    Luyến bỏ về. Côn giữ Ngọc lại. Con bé không chịu. Con bà cô này dễ ghét. Nó muốn cầm cỗ bài đẹt vào mũi con Ngọc cho sưng đỏ lên. Côn không về. Nó muốn ngồi bên Thúy mãi mãi để đánh tam cúc và bênh vực Thúy. Nhưng hết người đánh tam cúc rồi. Thúy bảo hai người chơi buồn lắm vì biết hết bài của nhau. Căn phòng còn hai đứa. Chúng nó cắn hạt dưa, ăn mứt và nhìn nhau. Đôi mắt con Thúy ban đêm cũng long như ban ngày.
- Côn này, Luyến nó không chơi với Côn nữa thì Côn chơi với ai ?
- Côn chơi với Thúy.
- Thúy không biết đá bóng.
- Cần gì đá bóng, Côn chán đá bóng rồi.
- Thế Côn thích gì ?
    Côn nuốt nước bọt ừng ực. Hạt dưa không làm nó khô cổ đâu. Nó muốn nói “Côn thích chơi với Thúy” mà chẳng dám nó. Côn vừa bảo “Côn chơi với Thúy”. Tiếng “thích” nào khó khăn chi mà Côn không dám nói. Nó nhón miếng mứt gừng bỏ vào miệng :
- Muốn cho con chim cu nó gáy, Thúy đừng mở miếng vải che kín cái lồng, Thúy nhé !
- Sao thế ?
- Chim nó xấu hổ.
- Nó xấu hổ thì nó không gáy à ?
- Ừ.
- Buồn cười nhỉ ?
- Ừ.
   Đồng hồ trên tường điểm boong boong tám tiếng. Dưới nhà, bác Thụy đang đánh chắn. Côn bước ra cửa. Trời đã dứt mưa và ngập đầy bóng tối.
- Côn về đây, Thúy ạ !
    Tới hè, Côn ngoái cổ dặn Thúy :
- Thúy đừng chơi với thằng chó Hội nhé !
    Thúy hỏi theo :
- Sao thế hở, Côn ?
    Côn không đáp. Nó quấn lại chiếc khăn phu la rồi bước nhanh. Đêm nay sẽ nằm mơ thấy nụ cười đầu xuân của Thúy.
12#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2009 22:07:21 | Chỉ xem của tác giả
12
    Khi những cây nêu vừa hạ và khi vôi bột rắc dưới cửa mỗi nhà vừa sạch dấu vết thì tỉnh lỵ chuyển mình. Dân thị xã ngủ vùi trong chăn ấm, sáng sau thức dậy mới biết có đảo chính. Nhật đã đảo chính Tây, Nhật chiếm tòa sứ, rút cờ tam tài xuống và kéo cờ mặt trời đỏ ối lên. Những nơi có Tây, Nhật chiếm hết. Ông Tây bà Đầm và Tây con bị Nhật bắt giam một chỗ. Trại lính khố xanh, Nhật chỉ canh giữ chung quanh. Thị xã Thái Bình được phen kinh ngạc. Mọi nhà đóng chặt cửa. Đường phố vắng hoe. Lính Nhật phóng xe khắp đường, súng chĩa vào hai bên để thị uy. Đến trưa, có lệnh dân chúng phải mở cửa, buôn bán như thường. Lệnh được những người thông ngôn bắc loa đi trên xe cam nhông kêu gọi. Lệnh còn nhắc đi nhắc lại câu “Quân đội Thiên Hoàng diệt thực dân Pháp và trao trả độc lập cho nước Việt Nam”.
    Từ một khe cửa hở, Côn đã nhìn rõ người thông ngôn Việt Nam đứng bên viên sĩ quan Nhật đeo kiếm trên xe : Người thông ngôn đó tên là Ban, bố Côn quen biết. Ông ta được dân thị xã kính sợ từ ngày lính Nhật sang Thái Bình. Chính ông Ban nói lớn “Quân đội Thiên Hoàng diệt thực dân Pháp và trao trả độc lập cho nước Việt Nam”. Nước ta đã độc lập. Độc lập ra sao, Côn không hiểu nhưng nó mừng rỡ. Côn sẽ gặp lại thầy Đàn. Và chẳng bao giờ nó còn thấy lính sen đềm Tây vào trường bắt các thầy đem về sở mật thám.
    Côn hỏi bố :
- Nước ta độc lập rồi hở, bố ?
    Bố nó mắng :
- Con là trẻ con, biết cái gì mà nói nhảm.
- Ông Ban nói.
- Kệ ông Ban. Con lo học hành đi. Không ôn bài vở, mai mốt đi học theo sao kịp bạn bè. Bố đã dặn chớ nói chuyện độc lập.
- Rồi thầy con có về Thái không ?
- Bố không biết. Đêm qua lính Nhật nổ súng, con chớ ra đường sẽ bị lạc đạn đấy.
    Dưới mắt người lớn, Côn vẫn chỉ là thằng con nít. Bố thằng Côn đâu biết thầy Đàn và thằng Vọng đã nhồi vào tâm hồn nó những danh từ không hề học ở trường. Và những danh từ ấy đã ám ảnh Côn. Nó chỉ quên khi ngồi gần Thúy. Và giá nếu cuộc sống cứ bình thản trùm kín dân tỉnh lỵ, ngày nào đó, Côn sẽ tưởng thầy Đàn là một nhân vật tiểu thuyết kiếm hiệp. Nhưng sự bình thản thật sự bị phá rối. Nhật đã nổ súng bắt Tây nhốt một chỗ ! Mấy đời nay chưa xẩy ra chuyện lạ đó. Côn biết một vài điều mà bố nó không bao giờ tưởng rằng nó đã biết.
- Bố ơi, có phải Nhật là phát xít không ?
Bố thằng Côn trợn mắt :
- Mày chết, ai bảo mày thế ?
Chuyện quan trọng rồi. Đến nỗi bố nó gọi nó bằng “mày”. Côn không dám khai cho Vọng. Nó lấm lét :
- Ở trường mấy anh lớp nhất nói.
- Tao phải xích chân mày ở nhà. Nhật nó nghe thấy, nó rút kiếm chém mày làm hai.
    Thằng Vọng đã nói đúng. Nhật hung ác lắm. Côn nín thinh, lỉnh xuống nhà. Trưa hôm sau, thằng Vọng tới tìm Côn. Nó hả hê khoe :
- Nước ta độc lập rồi.
    Côn bịt miệng Vọng :

- Nói khẽ chứ, bố tao sợ. Độc lập là gì hở, mày ?
- Là người mình cai trị người mình. Mày sang bên kia cầu Bo chơi không ? Vui lắm. Nhật nó bắt Tây kéo xe bò chở đất.
- Có bố thằng Dương không ?
- Thằng phó cẩm ấy à ? Nó bị ông Ban tát hộc máu mồm giữa phố chính. Mày đi coi Tây kéo xe bò không ? Tụi trường mình kéo nhau đi coi hết.
    Côn theo Vọng đi. Hai đứa rủ thêm bọn thằng Luyến. Chúng nó chạy một mạch sang bên kia cầu Bo. Ở đó, những ông Tây mấy ngày trước còn khệnh khạng, hét ra lửa, mặt mày hốc hác, quần áo lôi thôi, chân đất, đang đào đất, xúc đất đổ lên xe bò. Những ông Tây sen đầm bị kéo và đẩy xe bò đất đem đổ trên đê. Bọn trẻ con đã ôm bụng cười thích chí. Lính Nhật cũng cười theo. Thỉnh thoảng, lính Nhật bắt Tây chạy thật nhanh. Mấy anh Tây đẩy xe ngã chúi mặt xuống đường. Quen đi giầy, nay mấy ông Tây đi đất, đá dăm đâm vào chân, chẩy máu, nhăn nhó. Nhiều anh chịu không thấu, cởi áo bó lấy chân. Các bà Đầm bồng bế Tây con, đứng một chỗ, nhìn chồng bị hành hạ, khóc như gi vỡ tổ. Thằng Vọng leo lên vồng cầu, hét lên :
                     “Ai sinh ra cái xe bò
                     Để cho Tây phải kéo gò lưng tôm”.
    Bọn nhãi vỗ tay rào rào. Chúng nó bảo Vọng dạy hai câu đó. Thuộc rồi, chúng đến gần các ông Tây, lải nhải đọc. Nhiều ông Tây biết tiếng Việt Nam, xấu hổ cúi gầm mặt. Có ông khóc hu hu. Giữa trưa, Nhật bắt đào đất, đổ đất và không cho uống nước, các ông Tây khát lè lưỡi ra giống hệt những con chó khát. Nhật còn bắt bà Đầm ngồi trên xe tay, chĩa súng sai ông Tây kéo lên dốc cầu và xuống dốc cầu. Xuống dốc, xe có đà, ông Tây không biết kéo xe bị ngã nằm bất tỉnh. Xe lật xuống vệ đường, bà Đầm ngã nhào. Nhật cười ha hả. Thằng Vọng lại hét lớn :
“Ai sinh ra cái xe tay  .    Để Tây vất vả chân tay tối ngày”
Luyến rút súng cao su định “tia” thằng Tây nhà đoan chuyên môn đi bắt rượu lậu, Thằng Tây này đã có lần đến nhà nó, lấy cái que sắt nhọn chọc khắp chỗ. Nó còn sừng sộ với bố thằng Luyến, đòi bắt bố nó nữa. Luyến nạp đạn. Nó kéo căng hai sợi dây cao su. Nhưng khi sắp buông tay, Luyến lại thôi. Nó thấy thương hại bọn Tây. Một người lính Nhật dùng tay chỉ chỏ khuyến khích Luyến bắn. Nó lắc đầu. Côn đã không cười chế nhạo Tây nữa. Sự ghét bỏ của nó kể như hết. Nó bảo Luyến :
- Nhật nó đểu quá, mày nhỉ ?
- Ừ.
- Nó không cho Tây uống nước, tao sợ Tây chết khát mất. Hay là tao với mày lấy nước cho tụi nó uống đi.
- Nhật nó giết, mày ạ !
    Côn vẫy Vọng xuống. Nó hỏi Vọng :
- Mày có dám đem nước cho Tây uống không ?
    Vọng trề môi :
- Kệ mẹ chúng nó. Chúng nó có thương mình đâu. Thầy tao bảo vì Tây mà dân ta khổ sở.
    Côn rũ Luyến và Lộc về. Vọng nói theo :
- Tây nó còn trốn một mớ, ông sẽ đi tìm bắt giao cho Nhật lấy tiền thưởng.
     Chiều hôm ấy, lính Nhật giải các ông Tây bà Đầm thất thế đi bộ, áo quần lếch thếch, mặt mày phờ phạc diễu khắp phố. Dân thị xã kéo ra hai bên vỉa hè coi rất đông. Nhưng không ai nỡ ném trứng thối, cà chua ủng hay vỏ sữa bò vào đám người chiến bại. Lính Nhật kêu gọi dân chúng hãy chỉ chỗ Tây trốn tránh. Và dọa ai chứa chấp Tây sẽ bị xử tử. Mấy hôm sau, Nhật tóm cổ cả chục ông Tây mặc áo tơi, đội nón mê từ các làng xa thị xã về. Chẳng hiểu những người nông dân nào đã giúp Tây trốn tránh. Chỉ tiếc những cái mũi lõ không giấu nổi lính Nhật và thông ngôn người Việt Nam của họ. Những ông Tây trốn không thoát bị đánh đập tàn nhẫn. Côn nghĩ tới Vọng. Nó thấy hơi hơi giận Vọng.
13#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2009 22:39:24 | Chỉ xem của tác giả
13
    Sau những ngày đảo chính, tỉnh lỵ náo nức nhộn nhịp. Vẻ buồn thoang thoảng của nó biến đâu mất. Đảo chính ví như một lớp phấn hồng nhạt đánh phớt trên khuôn mặt lười trang điểm của cô gái tỉnh nhỏ. Đâu đâu người ta cũng nói chuyện độc lập và khối Đại Đông Á. Bài hát “Tiếng gọi sinh viên” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước được người lớn và trẻ con thị xã Thái Bình học hát một cách say sưa.
    Này sinh viên ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên, làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền. Dù cho thây phơi trên gươm giáo. Thù nước lấy máu đào đem báo …
    Thằng Vọng đứng giữa sân trường, bắt nhịp và dạy bạn bè hát. Khắp sân trường, học trò tụm năm túm ba tập hát “Tiếng gọi sinh viên”. Các lớp đóng cửa im ỉm. Học trò tới trường để hát và bàn tán chuyện độc lập. Vọng tiếc rẻ không có con nhà Vũ thổi ác mô ni ca. Nó hát khản cả tiếng, hát vang lừng như thể cả đời nó chưa bao giờ được hát.
             “Sinh viên ơi !
             May hiến thân dưới cờ
             Sinh viên ơi !
            Mau làm cho cõi bờ
           thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng ”.
     Người lớn gặp nhau ngoài đường, nắm trái đấm giơ lên cao chào nhau. Trẻ con cũng giơ nắm đấm chào nhau. Đưa đám ma một nhân vật của thị xã, người ta theo quan tài hát bài “Tiếng gọi sinh viên”. Một cơn gió mới lùa vào tâm hồn Côn cùng với niềm hân hoan của dân tộc. Bản nhạc “Tiếng gọi sinh viên” đã dạy Côn lớn lên, khôn ra. Nó mới hiểu yêu nước là phải “xông pha khói tên, làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền”. Côn nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phơ bay trên ngọn cột cờ trường học. Phải hiến thân dưới lá cờ đó. Thầy Đàn đã hiến thân dưới cờ, thầy đã ra đi lấy máu đào đền nợ nước. Côn muốn gặp thầy Đàn để ôm chặt thầy. Nó thương thầy gấp bội. Nó hãnh diện là học trò thầy Đàn như Vọng hãnh diện là học trò thầy Hoan.
     Niềm hân hoan của dân thị xã bộc lộ rõ rệt nhất trong ngày giỗ tổ Hùng Vương. Học trò thành chung và học trò tiểu học áo dài đen, quần chúc bâu trắng, đội mũ trắng, xếp hàng đi trước, dân chúng theo sau từ trường tiểu học tiến đến sân vận động. Tất cả hướng mặt về câu lạc bộ. Nơi đó một bàn thờ trải cờ Việt Nam và một đỉnh hương trầm nghi ngút. Đội kèn “bú rích” của lính khố xanh nay giọ là An Vệ Dân thổi bài “Tiếng gọi sinh viên”. Trống đồng đánh thình thình nghe oai vệ lắm. Học trò dở nón úp vào bụng. Thằng Vọng được đứng với đội kèn “bú rích”. Nó lấy giọng, bắt nhịp. Học trò đồng ca :
“Bốn nghìn năm văn hiến, nước Nam khang cường. Là nhờ công đức ngàn xưa. Văn hóa như sông rừng, cùng nâng dắt nhau tô vào ngàn muôn sắc hoa … Đời đời nhờ Hùng Vương đã vì quốc dân, lập nên nước này … Cúi đầu xin ban phúc giúp cho con Rồng, từ này thôi hết lầm than …”
    Năm nào, dân thị xã cũng giỗ tổ Hùng Vương nghiêm trang. Nhưng năm nay, nghiêm trang và phấn khởi hơn. Quan đầu tỉnh người Việt đọc diễn văn nhắc nhở công đức tổ Hùng Vương. Trên hàng ghế danh dự không còn quan công sứ Tây nữa mà chỉ có mấy vị sĩ quan Nhật ngực đeo huy chương, lưng dắt kiếm dài. Buổi lễ chấm dứt, dân chúng tuần hành khắp phố. Những thông ngôn Nhật dặn dân thị xã rằng : khi nào họ hô “đả đảo thực dân Pháp” thì tất cả giơ tay hô “đả đảo”.
- Đả đảo thực dân Pháp !
- Đả đảo …
- Đả đảo thực dân Pháp !
- Đả đảo …
Bọn thằng Côn hô to nhất. Nó hỏi Vọng :
- Đả đảo là gì hở, mày ?
Vọng nắm chặt trái đấm :
- Đả đảo là đánh cho Tây điên đảo, hạ quỵ Tây.
Những tiếng hô vang vọng khắp thị xã.
- Đả đảo thực dân Pháp !
- Đả đảo …
- Nhật hoàng vạn tuế !
Vạn tuế …
Việt Nam độc lập !
- Độc lập …
- Đại Đông Á đoàn kết !
- Đoàn kết …
- Đả đảo thực dân Pháp !
- Đả đảo …
Bỗng có người hô :
- Đả đảo phát xít Nhật !
Dân chúng quen miệng hô theo :
- Đả đảo.
     Lập tức, những người thông ngôn Nhật rút súng lục ra, lăm lăm trong tay. Một người bắn chỉ thiên ba phát. Lính Nhật theo đám tuần hành chạy rầm rập lên phía trước chận lại. Họ rút lưỡi lê cắm vào đầu súng và lên đạn lách cách. Những ngọn lưỡi lê chỉ chực đâm thủng da thịt. Dân chúng đứng im, mặt mày xám ngắt. Thông ngôn Nhật khám xét từng người lớn. Côn run sợ véo Vọng một cái. Nó nói nhỏ :
- Bỏ mẹ rồi, thằng nào bị bắt sẽ bị Nhật chém ngang thây.
Vọng nghiến răng cho hai hàm khỏi đánh nhịp. Nó thúc nhẹ vào mạng mỡ Côn :
- Câm mồm lại đi.
Sau nửa giờ khám xét thông ngôn Nhật tóm một người tình nghi, lôi ra. Vọng bật nói :
- Anh Đạo.
    Ông Ban tát anh Đạo hai cái nẩy đom đóm mắt. Anh Đạo nhổ nước miếng trúng mặt ông Ban.
- Đồ Việt gian !
    Lính Nhật thúc báng súng trường vào ngực anh Đạo. Anh ta trợn mắt nhìn mọi người, gầm lên :- Đả đảo phát xít Nhật !
    Một báng súng nữa đặp thẳng mặt anh Đạo. Máu anh ứa ra và anh rũ xuống cơ hồ một thân cây bị đốn ngã. Dân thị xã run bằn bặt. Côn úp tay che mặt. Nhưng thằng Vọng mở to mắt nhìn. Hàm răng nó không còn đánh nhịp. Nó nắm chặt hai nắm đấm, nghiến răng ken két. Luyến thấy đôi mắt Vọng long sòng sọc. Nhật ra lệnh giải tán đám tuần hành, người nào về nhà người ấy. Côn kéo tay Vọng và Luyến ra về. Đi được quãng xa, ngó lại không thấy lính Nhật và thông ngôn, Côn hỏi Vọng :
- Anh Đạo này đấy mày ?
- Anh ấy ở Đông Cao (1), Tiền Hải.

- Mày quen anh ấy à ?
- Thầy Hoan bảo anh ấy tìm tao. Tối qua anh Đạo kể tội Nhật. Anh ấy nói sẽ xui dân thị xã chống phát xít Nhật. Giá anh Đạo không bị bắt, tao đã theo anh ấy đi rồi.
Luyến lè lưỡi :
- Ông sợ quá, ông chuồn đây.
    Luyến co cẳng chạy. Côn không nói thêm gì với Vọng nữa. Tự đáy lòng nó vừa cuồn cuộn một nỗi đau thương. Côn đã nhìn rõ sự hung ác của Nhật. Nó nhìn Vọng. Thằng bạn nghèo khổ đang ứa nước mắt. Côn thấy nước mắt bạn không giống nước mắt những lần nó bị thằng Hách bắt nạt. Nó vươn tay khoác vai Vọng :
- Về nhà tao uống nước.

    (1) – Đông Cao, một làng cách mạng chống Pháp thuộc huyện Tiền Hải, gần bãi biển Đồng Châu. Pháp không đánh nổi phải dùng tầu bay thả bom tàn phá cả làng. Thủ lãnh Đông Cao chống Pháp là ông Ngô Duy Phớn.
14#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2009 22:40:02 | Chỉ xem của tác giả
14
    Niềm hân hoan đã tàn lụi. Lớp phấn hồng đảo chính trên má cô gái tỉnh lỵ vội vàng phai nhạt. Bây giờ chỉ hằn dấu vết sợ hãi. Nhật treo chân hai người Việt Nam trên một cành cây, đầu dộng xuống. Hai người này bị bắt quả tang ăn cắp thóc của ngựa lính Nhật. Họ quỳ lạy Nhật. Nhật không mảy may xúc động. Lính Nhật trói chân họ, dùng dây thừng lớn kéo lên cành cây cao ở đầu tỉnh. Một người lính Nhật leo lên buộc chặt. Hai tên ăn cắp thóc giẫy giụa, la hét cho tới khi chết. Hai người bị Nhật xử tử cùng cư ngụ tại xóm Kỳ Bá. Họ nghèo khổ như mẹ con thằng Vọng. Chính mắt Vọng đã nhìn thấy từ lúc họ bị bắt đến lúc họ giẫy chết. Vọng kể cho Côn nghe. Côn đã ôm mặt khóc tấm tức. Nó thương hai người nghèo chết khổ sở quá.
    Nhật để hai cái xác chết toòng teng trên cây ba ngày để làm gương cho dân thị xã. Không ai dám gần chỗ ngựa lính Nhật ăn thóc nữa. Nhật đi khám xét từng nhà. Nhật không bắt rượu lậu mà chỉ bắt những người chống Nhật. Quan đầu tỉnh người Việt không can thiệp nổi việc gì. Thị xã căng thẳng nỗi sợ. Nhật ra lệnh cho dân quê nhổ lúa non lên, trồng đay để Nhật có đay đan lưới hứng bom Mỹ ! Ai không tuân lệnh sẽ bị xử tử. Dân quê phá lúa trồng đay. Gạo bỗng lên giá vùn vụt. Dân quê đổ xô về thị xã xin việc làm tôi tới và ăn mày. Chợ thị xã và các vỉa hè, ban đêm, ăn mày ngủ chật ních. Mùa xuân năm nay lạnh hơn những mùa đông năm cũ. Khối ông già, bà lão đã chết cóng ở chợ. Ngay tại thị xã, nhiều nhà đã phải ăn cơm trộn ngô, khoai. Có gia đình sáng lót lòng củ khoai, trưa ăn cơm và tối húp cháo.
    Chiến tranh cũng theo đảo chính về Thái Bình. Người Hà Nội, người Hải Phòng có bà con thân thuộc ở Thái Bình, về đây tránh bom Mỹ. Nhật gây chiến với Mỹ. Và Mỹ chở bom dội xuống Hà Nội, Hải Phòng. Bác thằng Côn đi ca nô Nam Định – Hà Nội bị máy bay Mỹ bắn trúng tay phải cưa cụt một tay. Mỹ chưa dội bom Thái Bình nhưng Nhật đã bắt đào “tăng sê” và tập phòng thủ thụ động. Hôm nọ, máy bay Nhật rượt máy bay Mỹ trên vùng trời Thái Bình đã làm náo động dân chúng. Chiếc máy bay khu trục của Mỹ bị hạ rơi ở Quỳnh Cối, cháy từ trên không rớt xuống nổ tan tành. Người ta sợ Mỹ dội bom Thái Bình để trả thù. Ban đêm dân thị xã bị cúp điện. Mỗi nhà chỉ được thắp đèn dầu nhỏ và hễ báo động phải tắt ngay. Xe Con Voi của ông Lê Văn Định nằm đầy bến. Ét xăng hiếm lắm. Nhật không cho chạy xe bằng xăng. Xe Con Voi dùng than chạy các đường mười hai phủ huyện.
    Thằng Vũ đã về Thái dịp này. Côn thấy bạn khác đi nhiều quá. Nó lớn vượt hơn Côn. Vũ có vẻ ít nghịch ngợm. Nó không kể cho Côn, Luyến, Vọng nghe chuyện vườn bách thú hồ Tây, Nghi Tàm, Quảng Bá, Láng, Voi Phục, hồ Gươm mà toàn kể chuyện đảo chính Nhật ở Hà Nội và nấp máy bay Mỹ. Sự hồn nhiên chưa hẳn đã mất nhưng thời cuộc đã làm những đứa trẻ duỗi chân. Và sự hồn nhiên bị đụng, hở ra một cánh cửa cho nắng gió ùa vào. Giọng nói của Vũ ồm ồm khó chịu lắm. Nó không nhận ra điều đó. Song nó lại khó chịu giọng nói của thằng Côn.
    Vũ về Thái được hai hôm thì thị xã xôn xao chuyện một sĩ quan Nhật bị giết chết ở bến đò Hưng Nhân, gần làng Thanh Triều. Một người Việt Nam đã bắn viên sĩ quan này và đẩy xác xuống sông Trà Lý. Nhật bao vây thôn xóm quanh bến đò, đòi xác sĩ quan của họ. Họ cho một cái hẹn ba ngày, nếu không nộp xác chết, họ sẽ làm cỏ hết dân chúng. Côn sợ hãi. Vũ coi thường.Chúng nó rủ nhau vào sân trường nói chuyện. Vũ bảo :
- Ở Hà Nội, đêm nào ta cũng giết Nhật và Việt gian.
     Côn chợt nhớ hôm giỗ tổ Hùng Vương, anh Đạo nhổ nước miếng vào mặt ông Ban mắng ông ta là “đồ Việt gian”, nó quên béng, chưa hỏi Vọng. Nay Vũ lại nhắc hai tiếng “Việt gian”, Côn đập khẽ lưng Vũ :
- Việt gian là gì hở, mày ?
- Là người Việt làm tay sai cho Nhật.
- Tay sai là gì ?
- Là Nhật nó sai đi giết người, bắt người đánh đập.
    Côn liếm môi, quan trọng :
- Ông Ban là Việt gian đấy, mày ạ !
    Vũ há hốc miệng :
- Thế à ? Mày đừng gọi nó là ông nữa. Ở Hà Nội người ta gọi Việt gian là thằng. Thằng Ban mà ở Hà Nội là bị giết rồi. Dân Hà Nội cừ lắm. Coi Nhật như tép kho tương. Tao cuộc với mày, Nhật nó chỉ dọa chứ nó “đét” dám làm cỏ dân ở bến đò Hưng Nhân đâu.
     Nói chuyện Nhật và Việt gian chán chê, Vũ hỏi Côn chuyện Thái Bình.
- Thầy mình còn dạy không ?
Côn “ơ” một tiếng :
- Tao viết thư cho mày rồi thôi.
- Thư lạc bố nó mất rồi.
- Thầy mình đi được mấy tháng. Bố tao bảo thầy là nhà cách mạng.
- Thế hở ? Ở Hà Nội có nhiều nhà cách mạng lắm.
- Thầy khen mày can đảm và khuyên tao hãy can đảm như mày.
    Vũ ngạc nhiên :
- Tao can đảm cái gì đâu ?
    Côn vỗ vai bạn :
- Mày không thèm xin lỗi thằng phó cẩm. A, hôm đảo chính, “thằng Việt gian” Ban tát lão phó cẩm hộc máu mồm.
    Vũ khoe :
- Ở Hà Nội tao đi xem đánh Tây mới vui. Về sao tao thương Tây, mày ạ ! Nhật nó đểu quá, nó ác hơn Tây.
    Côn nắm chặt cánh tay bạn :
- Mày giống tao ghê. Thằng Vọng nó thích Nhật hành hạ Tây.
    Vũ không chê Vọng. Nó đăm đăm nhìn gian lớp cũ. Có lẽ, trường xưa, lớp cũ và những ngày vui đùa năm qua, chỉ còn là kỹ niệm. Côn lay bạn :
- Chúng tao mang gạo cho thằng Vọng đấy. Dạo này gạo kém, mẹ con nó phải ăn cháo thay cơm.
    Vũ buồn buồn :
- Ở Hà Nội đã có người chết đói. Chúng mình may cái túi vải, mỗi đứa lấy trộm gạo ở nhà bỏ vào túi, đem đến cho thằng Vọng.
    Côn nói :
- Nó bảo vì Tây mà nó đói khổ. Thầy Hoan dạy nó rằng sự đói khổ là mầm thù hận. À, Vũ này …

- Gì ?
- Mày … mày …
- Gì đấy ?
- Mày đừng giận tao nhé !

- Ông đấm mày chết bây giờ.

- Mày … mày … có nhớ …

- Nhớ ai ?

- Nhớ con Thúy không ?

Vũ phá ra cười. Nó lăn trên sân cỏ. Côn không hiểu gì cả. Con nhà Vũ nghếch đầu lên :

- Nó biến thành con nhặng chưa ?

- Chưa.

- Mày trả thù nó cho tao chưa ?

- Chưa.

Côn ngẩn ngơ một lát. Rồi rụt rè hỏi Vũ :

- Tao … tao …

Vũ toét miệng :

- Mày ghét nó, hở ?

Côn lắc đầu rất thiểu não :

- Không, tao lại chơi với nó mới chết chứ.

Vũ chồm tới, nắm chân bạn :

- Thì mày cứ chơi với nó đi. Tao có bạn ở Hà Nội. Mà tao ghét nó rồi. Mày biết không, nó lớn hơn tao, nó ở cạnh nhà tao. Hễ lúc tao đi học, nó chạy theo cho tao ngô luộc với lại bánh rán, tao ngượng quá. Một hôm nó ôm lấy tao, tao ức đấm nó một quả, nó khóc, mày ạ ! Từ đó, tao không thèm chơi với con gái nữa.
Vũ nhìn Côn ranh mãnh :
- Con nhặng Thúy đã cho mày bánh rán chưa ?
    Côn cúi gầm mặt, đáp nhỏ :
- Chưa. Chỉ có tao cho nó cái lồng chim cu gáy.
    Giữa lúc hai thằng bạn thân đang tâm sự thì vua súng cao su Luyến xuất hiện. Nó kéo hai thằng đi ăn phở “Phớn”. Trời lạnh đi ăn phở, còn gì ngon hơn ? Vũ cuộc một bát phở sào với Côn là Nhật không giết hết dân quanh bến đò Hưng Nhân. Không đứa nào thắng cuộc cả. Vào ngày hạn cuối cùng của Nhật, một thanh niên đến nạp mạng lính Nhật, thú nhận đã giết viên sĩ quan. Anh ta nộp luôn khẩu súng lục đã bắn nạn nhân. Anh ta bảo dân chúng vô tội. Cùng lúc ấy, lính Nhật đã kiếm được xác viên sĩ quan của họ nổi lềnh bềnh trên khúc sông gần đó. Mùa này nước lặng nên xác không trôi xa. Nhật tẩm dầu xăng, đốt xác viên sĩ quan, bỏ than vào cái hộp. Họ cử lễ truy điệu viên sĩ quan rồi rút kiếm chém đứt đầu người thanh niên. Anh ta đã cứu mạng sống của hàng trăm người. Bố thằng Côn kính phục người thanh niên dũng cảm, coi cái chết của anh như cái chết của một liệt sĩ.
15#
 Tác giả| Đăng lúc 29-3-2009 20:56:30 | Chỉ xem của tác giả
15
Côn hớt hơ hớt hải chạy sang nhà Vũ :
- Vũ ơi, có người vừa chết đói ở cầu Kiến Xương. Tao nhìn thấy.
Vũ đang nằm đọc truyện, ngồi nhổm dậy :
- Mày nhìn thấy à ?
- Ừ. Ông ta ngã khụy, tay giơ lên cố bám lấy thành cầu mà không bám nổi. Tao về đem cơm ra cho ông ta thì ông đã chết rũ rồi.
Vũ khoe với dì nó :
- Dì ơi, ở cầu Kiến Xương có người chết đói.
Dì nó sợ hãi :
- Ba con nói năm nay chắc chết đói nhiều. Các con chớ gần xác chết nhé !
    Vũ vâng dạ rối rít. Nó kéo Côn đi chơi. Giữa đường, hai đứa gặp Luyến và Lộc. Thằng Lộc nói hai người chết đói ở cổng Vọng Cung. Thằng Luyến bịt mũi nói ở ngã tư Vũ Tiên vô số người chết đói. Tin chết đói loan truyền thật nhanh. Thị xã ngập chìm trong sự lo âu. Người ta quên mọi chuyện, kể cả chuyện lính Nhật hung ác, mà chỉ nói chuyện chết đói. Tháng ba trời vẫn còn lạnh. Cá thi nhau chết lềnh bềnh trên mặt hồ, ao. Cá rô khỏe thế cũng chết cóng. Những hạt sương muối đọng trên ngọn cỏ sắc buốt như kim châm vào da thịt những bàn chân không giầy dép. Có lẽ, người nghèo vừa chết đói vừa chết rét. Họ không phải dân thị xã. Từ các làng quê mười hai phủ huyện, họ dắt díu nhau lên tỉnh, sang Nam Định. Họ bán lúa non cho người giầu. Tiền hết, không ai cho vay lúa, họ bán gia tài, bỏ làng đi kiếm sống. Người đủ sức, đủ tiền lê lết lên Hà Nội. Có khi mới đến Phủ Lý họ đã gục chết bên đường. Một vài người vừa thấy Hà Nội là lăn ra chết.
    Thị xã làm gì có việc cho dân quê ra tỉnh. Họ đến chợ ngủ. Dần dần, dân quê xâm nhập thị xã khiến thị xã toàn ăn mày. Sự bố thí có giới hạn. Không nhà nào nấu cơm sẵn mỗi ngày cho hàng trăm người ăn mày. Họ ngồi ủ rũ dưới gốc cây, hiên nhà, sân đền, dưới tường nhà thương, trường học. Phú lít mặc họ vì đuổi không xuể. Những buổi trưa nắng, họ cởi áo ngồi bắt rận, bắt chấy cho vào miệng cắn đôm đốp rồi nuốt trửng. Chấy như một đàn kiến bò lổn ngổn trên tóc họ, bắt mãi chẳng hết. Họ sống nhờ của bố thí. Dân thị xã kinh tởm họ chứ không sợ hãi. Nhưng sáng nay, tin chết đói làm thị xã rụng rời. Chỉ nội buổi sáng, người ta phát giác mấy chục xác chết đói. Ty vệ sinh của thị xã lo ván chôn những xác chết vô thừa nhận. Nhật rửng rưng trước nạn chết đói. Không thấy Nhật lo phát chẩn như Tây thường phát chẩn cho dân nghèo.
    Côn cắn môi :
- Ba thằng Vũ nói đúng quá.
    Vũ vênh mặt :
- Ba tao nói cái gì cũng đúng.
    Luyến hỏi :
- Ba mày biết tại sao chết đói nhiều không ?
    Vũ chưa kịp trả lời thì Lộc vội đáp :
- Anh tao bảo tại Nhật bắt phá lúa trồng đay. Nhật nó thu hết thóc ở nhà quê rồi.
    Mấy đứa trẻ nhìn nhau, kinh ngạc. Côn không quên câu chuyện tại nhà thằng Vọng. Nó cũng nhớ những ngọn lưỡi lê của lính Nhật lăm lăm chờ đâm dân thị xã hôm giỗ tổ Hùng Vương. Côn đã bưng mặt không dám nhìn báng súng Nhật đập vỡ mặt anh Đạo. Hai người nghèo khu Kỳ Bá ăn cắp thóc của ngựa lính Nhật bị chết treo ở đầu tỉnh còn là giấc mơ kinh hoàng của Côn. Nó buột miệng :
- Nhật đểu ghê !
Vũ nắm chặt bàn tay thành trái đấm :
- Tiên sư Nhật lùn !
Côn đá khẽ Vũ :
- Mày liệu hồn.
Vũ bĩu môi :
- Ở Hà Nội, người ta gọi Nhật là Nhật lùn. Tụi trọc đầu mắt một mí đểu thật. Ông “đét” sợ Nhật.
Côn bỗng lây sự cam đảm của Vũ. Nó nói :
- Thấy mình trở về, tụi Nhật bỏ cha chúng nó.
    Ngay cái lúc hăng máu hiệp sĩ của Vũ và Côn thì một cái xe bò lọc cọc lê bánh trên đường phố. Hai anh Hướng Đạo đẩy, một anh quàng dây qua vai kéo, chở ba anh khác đứng trên xe. Chiếc loa thiếc “a lô, a lô” ầm ỹ. Vũ nheo mắt :
- Hướng Đạo đóng kịch, hở ?
    Bốn đứa chăm chú nhìn.
- A lô, a lô … Lá lành đùm lá rách. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Xin đồng bào hãy cứu giúp dân nghèo. A lô, a lô, xin đồng bào hãy bớt chút phần ăn cứu dân nghèo khỏi chết đói. A lô, a lô …
    Côn mừng rỡ :
- Hướng Đạo quyên cơm phát chẩn, chúng mày ạ !
    Vũ rủ rê :
- Chúng mình xuống đẩy xe bò đi !
    Cả bọn chạy theo Hướng Đạo, đẩy xe đi “a lô” khắp thị xã.
- A lô, a lô … Xin đồng bào hãy đem cơm, bánh tới sân trường tiểu học để anh em Hướng Đạo đi phát cho dân nghèo. Lá lành đùm lá rách. A lô, a lô ! …
    Bọn thằng Côn đẩy xe đến gần phố nhà chúng, bỏ về xin bố mẹ thổi thêm nồi cơm lớn. Ăn uống lấy lệ, chúng nó đổ cơm ra rá, đêm tới trường. Rồi nhập bọn cùng Hướng Đạo thị xã đi phân phát cho dân nghèo. Côn đứng nhìn những người đói ăn. Họ ăn rất nhanh. Đói ngấu, họ chẳng thèm nhai. Bỏ cơm vào miệng là họ nuốt trửng. Nhiều người vừa trông thấy rổ cơm đã ào tới, nằm rạp xuống bốc. Lắm người hục cả mặt hớp cơm nóng như lợn ăn cám. Cơm dính đầy đầu tóc. Họ vuốt mặt, đưa tay liếm từng hạt. Có người được phát bánh chưng, quên bóc vỏ. Họ cắn luôn lá bên ngoài, nhai nghiến, nuốt phùng cả cổ họng. Họ có thể ăn mãi nhưng mỗi người chỉ có phần mình. Mẹ nuốt cơm, con nhai vú sữa. Cảnh tượng thê lương chưa từng thấy trong một đời người. Tuy đã được cứu tế, hàng ngày vẫn chết đói rải rác khắp xó tỉnh.
    Tuần lễ sau, Đoàn Khuất Thực Thị Xã ra đời. Hầu hết học trò thị xã đều tham gia Đoàn Khất Thực. Buổi lễ xuất phát thật cảm động. Người trưởng đoàn nước mắt dầm dề nói về ý nghĩa của sự thành lập Đoàn Khất Thực. Côn và Vũ đều rơm rớm nước mắt. Đoàn Khất Thực chia thành những toán nhỏ. Mỗi người đeo một cái bị đi xin cơm các nhà. Bọn thằng Côn đã trở thành những đứa bé ăn mày. Chúng nó vui vẻ đi ăn mày cơm, bánh tây, bánh chưng … Đó là những kẻ ăn mày áo lành, xông xáo khắp chốn, Luyến chống cái gậy. Nó giả vờ khòm lưng, lè nhè :
- “Ăn mày là ai, ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày” …
    Đến cửa nhà mình, Luyến gõ gậy, pha trò :
- Con lạy ông, lạy bà, lạy cô, lạy cậu, xin ông bà cô cậu bố thí cho con đồng cơm bát cháo …
    Mẹ nó ôm bụng cười và đổ cơm đầy cái bị của nó. Luyến vẫn còn tinh nghịch. Đảo chính, chết đói không làm nó mất sự hồn nhiên. Luyến chả cần suy nghĩ chuyện độc lập, cách mạng. Có thằng Vũ, nó không thèm muốn giang hồ Hà Nội nữa. Vũ là Hà Nội của Côn. Nhưng, dường như, Vũ lây thằng Côn rồi. Nó thích nghe chuyện Nhật và chửi “tiên sư Nhật lùn”. Luyến không ghét ai cả, nó chỉ ghét những ngày mưa nằm bó cẳng không được đi bắn chim, bắn gà, bắn chó. Thị xã mới thêm trò ăn mày. Luyến lại thấy thị xã hết chật hẹp.
- Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông bà. Xin ông bà cho con bát cơm.
    Luyến thuộc lòng những câu của ăn mày để đi … ăn mày. Thế mà Vũ và Côn đã bị lây sự vui nhộn của Luyến. Chúng nó không tách rời sang các toán khác. Luyến, Côn, Vũ, Lộc, Long đi riêng một toán. Nhà nào đóng chặt cửa, Vũ bấm chuông điện kêu ầm ỹ. Chuông hỏng, chúng nó đập cổng thình thình. Hễ không mở, chúng nó réo tên pha trò. Luyến sẵn sàng súng cao su, bắn chó, bắng bóng đèn. Mở cửa mà không cho cơm Khất Thực, chúng nó mắng mỏ túi bụi. Vì chúng nó đâu phải là ăn mày, Côn thấy chỉ những nhà giầu không cho cơm Khất Thực thôi, còn ai cũng vui vẻ bố thí.
    Nhờ Đoàn Khất Thực, Côn gặp Thúy luôn, chẳng cần kiếm cớ. Sáng sớm, Côn xách bị lại nhà Thúy xin cơm. Bác Thụy khen nó ngoan ngoãn, biết thương người nghèo. Con Thúy đổ cơm vào bị của Côn. Nó mỉm cười với Côn. Con nhà Côn đi ăn mày suốt ngày không mệt. Nhưng một buổi sáng, đúng rồi, một buổi sáng, Thúy hỏi Côn rằng tại sao thằng Vũ không đến nhà Thúy chơi. Côn ta bỗng buồn ghê gớm. Nó nhớ hôm Thúy khen Vũ phóng phi tiêu giỏi hơn Côn. Và Côn chẳng thích lại nhà Thúy xin cơm nữa. Côn tự nhủ sẽ không nói cho Vũ nghe chuyện này.
16#
 Tác giả| Đăng lúc 29-3-2009 20:57:22 | Chỉ xem của tác giả
16
- Vũ ơi !
- Gì ?
- Mày có nhớ những ngày đùa nghịch năm ngoái không ?
- Nhớ chứ.
- Giá Nhật nó đừng sang Thái Bình, chúng mình sẽ đùa chơi thả cửa, mày nhĩ ! Thằng Luyến nó mong mày về, nó hết muốn lên Hà Nội rồi. Tụi tao đã định leo xe ông tài Định giang hồ Hà Nội đấy. Nhật nó sang Thái Bình, dân mình chết đói nhiều quá.
- Ba tao bảo tao lớn tồng ngồng rồi, không nên nghịch ngợm nữa. Mày thấy tao lớn chưa ?
- Mày hơi hơi lớn thôi.
- Mày cũng hơi hơi lớn giống tao. Sang năm chúng mình học “cua xuýp”, hết hè lên thành chung là thành người lớn. Tao sẽ thi vào trường Bưởi. Học trò trường Bưởi đánh nhau với học trò trường Albert Sarraut luôn.
- Trường Bưởi thắng hay thua ?
- Thắng. Lần nào đánh, lần ấy thắng. Bọn học trò Tây sưng vù mặt mày. Dân Hà Nội cừ nhất.
- Tao muốn học trường Bưởi ghê.
- Nhiều anh trường Bưởi chống Tây bị bắt bỏ tù. Tao chắc giờ các anh ấy đang chống Nhật. Tiên sư Nhật lùn ác quá ! Nó đốt lúa mày ạ !
- Ai nói thế ?
- Ba tao. Ba tao còn nói Nhật bắt lính, thu thóc nặng hơn Tây.
- Chắc vì thế dân mình chết đói.
- Ừ. Ba tao mới đi Ninh Giang về. Ba tao kể dọc đường từ ngã tư Môi đến gần cầu Bo, xác chết đói ngổn ngang, thối um. Không ai chôn cả. Người qua đường phải lấy khăn bịt mũi. Ba tao bị ốm, ăn cơm là ba tao nôn ọe. Ba tao sợ phát ốm. Xoa dầu nhị thiên đường nóng bỏng mũi mà ba tao bảo vẫn ngửi thấy mùi thối. Này Côn này …
- Gì ?
- Ta sắp đánh Nhật, đuổi Nhật khỏi Thái Bình đấy.
- Ai nói thế ?
- Bác Thụy, bố mày, ba tao nói chuyện thầm, tao nghe lén.
    Côn ngồi bật dậy. Lòng nôn nao lạ thường. Côn nhớ ngày nọ ở bên kia cầu Bo, Nhật bắt Tây đào đất, kéo xe bò. Nó ao ước thầy Đàn sẽ về Thái, bắt Nhật đào đất, kéo xe bò. Lần này, chính Côn leo lên vồng cầu Bo cao nhất, hét lớn “Ai sinh ra cái xe bò, Để cho Nhật phải kéo gò lưng tôm”. Côn sẽ xui Luyến nhằm bụng lính Nhật mà “tia” đạn đất.
- Bao giờ ta đánh Nhật hở, mày ?
- Sắp đánh.
- Liệu ta thắng không ?
- Giấy nói ta sẽ thắng Nhật lùn. Bố mày đọc xong đưa cho ba tao. Ba tao bật diêm đốt mảnh giấy ra tro.
- Ai gửi giấy cho bố tao ?
- Không biết nữa.
    Hai thằng bạn ngồi sát bên nhau hóng nắng. Giàn hoa lý trên đầu chúng đã hết vẻ héo hon. Bây giờ mới có nắng xuân, nắng xuân muộn. Nắng xuân muộn nhẩy múa trên những chiếc lá non. Côn nghe rõ từng chiếc lá chuyển mình, chuyển mầu. Nó cũng nghe rõ cả sự nô nức trong tâm hồn nó. Tâm hồn thằng Côn đang nô nức mong chờ ngày ta đánh Nhật.
- Hễ thắng Nhật là hết chết đói hở, mày ?
- Ừ.
- Thằng Vọng bảo đánh đuổi Tây, Nhật khỏi Thái Bình ta sẽ độc lập. Tao thích lấy dây thừng trói tay lính Nhật dẫn nó đi diễu phố. Ông tước kiếm của nó đeo cho oai.
- Tao ấy à, ông treo nó dộng ngược lên cây để nó chết giẫy. Nó ác nhất thế giới. Nó giết mình thế nào, mình giết nó thế ấy.
    Vũ bỗng reo to :
- Tao nghĩ được trò chơi mới rồi.
    Côn hí hửng :
- Trò gì ?
    Chúng mình ra bờ sông chia phe đánh nhau. Tao với mày phe ta, bọn thằng Luyến phe Nhật, chúng mình bắt Nhật ném xuống sông.
- Ừ, hay tuyệt cú mèo. Nhưng mà, Vũ ơi …
- Gì ?
- Tao muốn nói với mày chuyện này …
- Hay lắm không ?
- Tao … tao …
    Vũ phát lưng bạn một cái :
- Ông biết tỏng. Chuyện con Thúy, hở ?
    Côn chớp mắt :
- Ừ.
- Nó bảo mày ăn cắp cái lồng chim cu gáy chứ gì ?
Côn lắc đầu :
- Không.
Vũ thoi khẽ Côn :
- Thế sao ?
- Nó không thích chơi với tao !
    Côn buồn rầu :
- Kệ mày.
- Ừ, kệ tao.
    Vũ hỏi :
- Sao mày bảo mày chơi thân với nó ?
    Côn đáp :
- Dạo xưa cơ. Từ hôm mày về nó không thích chơi với tao. Nó hỏi thăm mày. Nó nhắn tao bảo mày tới nhà nó chơi.
     Côn ngước nhìn những chiếc lá thiên lý tắm nắng xuân. Một nỗi niềm thật là buồn vừa len lỏi vào tâm tưởng nó. Ngày trước, Vũ chơi thân với Thúy, Côn có cần biết gì đâu. Con Thúy làm thằng Vũ bị đuổi học, Côn còn ghét con Thúy, trách móc Vũ đã bênh con bà cô Thúy. Bây giờ lại khác, con Thúy thích chơi với thằng Vũ đã làm Côn buồn. Chẳng biết tại sao nó buồn. Côn định ỉm chuyện Thúy nhắn Côn. Rồi nó không ỉm được. Luôn luôn, Côn cần thằng Vũ.
- Mày đến nhà nó đi.
- Tao ghét nó rồi.

- Tại sao mày ghét nó ?
- Nó mắng tao là đồ ăn cắp cái lồng chim của thằng Hội, tao ghét nó.
- Nó khen mày ném phi tiêu giỏi hơn tao. Nó không ghét mày đâu.
Vũ nắm chặt cánh tay Côn :
- Thúy nó khen tao à ?
Côn gật đầu chậm chạp :
- Ừ.
- Tao không đến đâu, tao thề rồi …
- Mày không đến, nó giận tao.
- Kệ nó. Nhỡ nó ôm tao, tao xấu hổ chết mất. Con gái nó hay điên. Anh tao ở Hà Nội nói thế. Tao “đét” thích chơi với con Thúy nữa.
- Mày thích chơi với ai ?
   Vũ giật mạnh cánh tay Côn. Thằng bạn khuỵu tay xuống :
- Ông thích chơi với mày thôi.
    Nhưng mà thằng Côn vẫn buồn. Nó muốn khóc nữa. Nó sợ khóc thằng Vũ chế nhạo. Côn đứng lên, vươn vai :
- Tao về đây.
- Chiều nay ra bờ sông lập trận giả đánh Nhật không ?
- Không.
- Sao thế ?
- Tao không biết.
    Côn bỏ về. Vũ ngồi nhìn theo bạn. Nó thấy dáng điệu của thằng Côn ủ rũ quá. Vũ nghĩ thầm “Con Thúy là cái thớ gì mà thằng Côn sợ nó”. Đến lượt Vũ không hiểu cái “thớ” của con Thúy như năm ngoái Côn đã không hiểu và rỉa rói Vũ. Con Thúy làm Côn bỏ đùa nghịch chiều nay. Vũ lại đâm ra ghét con Thúy thêm.
17#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2009 20:38:43 | Chỉ xem của tác giả
17
    Đoàn khất thực đành bó tay. Dân quê mỗi ngày một kéo lên thị xã hàng đàn lũ lượt như kiến chạy mưa. Người ta chết đói nhiều quá khiến sự cứu tế trở thành vô nghĩa. Ngay ở thị xã, lắm nhà đã phải ăn một bữa hay ăn cơm độn ngô, khoai. Mùa lúa mới mãi tháng năm mới được gặt. Mà đồng ruộng nhiều vùng Nhật đã bắt phá lúa non, trồng đay, trồng gai. Dân quê chết như rạ trên các lối đi về thị xã. Khu Kỳ Bá có gia đình chết đói hết. Khu cầu Kiến Xương cũng đông người thị xã chết đói. Dưới An Tập, dân nghèo bắt đầu chết. Không còn gỗ đóng ván nữa, phải bó xác chết đói mà chôn. Rồi chiếu hết, xác chết chất hàng chục cái lên xe bò, chở tới cái huyệt lớn chôn chung. Thoạt đầu, ty vệ sinh rắc vôi bột trước khi lấp đất. Sau, vôi bội hết luôn. Một cái huyệt chôn chung hàng trăm xác chết đói. Người chôn xác chuyên nghiệp của thị xã làm việc quần quật. Tỉnh thuê thêm người. Chôn xác được ít ngày, những người làm nghề chôn xác lăn ra chết vì tử khí nhập vào chơ thể họ. Thị xã nồng nặc mùi thối dưới những cơn nắng tháng ba. Người vừa gục chết, ba bốn hôm sau mới chở tới nghĩa địa. Thị xã sợ dịch tả, dịch hạch, tự động xúm nhau đi chôn xác chết. Người ta lấy khăn bịt mũi, dùng dây thừng buộc chân xác chết, lôi xềnh xệch trên đường phố. Nhiều người chết giấm chết giúi, mãi khi xác thối rữa ra mới được phát giác.
    Thị xã ngập chìm trong lo âu. Ngay cả người dư dả miếng ăn cũng sợ sẽ bị chết đói. Nỗi sợ khiến dân thị xã quên thương xót đồng bào ruột thịt.
    Nhật vẫn không mảy may xúc động. Ngựa của Nhật thả cửa ăn thóc. Dân Việt Nam chết đói ngổn ngang. Nhưng Nhật không quên đi lùng bắt những người chống Nhật. Bên kia cầu Bo, nhiều cảnh chết thật quặn lòng. Những trẻ thơ nhay vú mẹ, nhay mãi mãi mà không biết mẹ đã chết. Những cái vú sữa lép kẹp. Trẻ thơ vừa nhay vừa khóc rồi gục đầu trên vú mẹ mà chết. Xác chết chồng lên nhau. Chết không giăng giối. Chết không biết là chết. Mới mở mắt thều thào, quờ quạng, vài phút sau đã chết. Ngồi mà chết. Ngồi bó gối, đầu đội nón lụp sụp, tưởng còn sống đem cơm cho ăn. Đến nơi mới biết đã chết tự lúc nào. Cố đứng dậy bước, đói quá, chết ngã úp mặt. Một trận chết đói khủng khiếp nhất nhân loại đã diễn ra ở Thái Bình.
    Dười gầm cầu Bo, vì mùa nước cạn, dân quê tập trung một số dưới đó để trốn rét để trốn đói và chờ chết. Không ai ngăn cản nổi. Thị xã biến thành một thành phố dã man kiếp nào. Đói quá đỗi, dân quê đâm ra liều lĩnh để tranh sống. Cảnh vồ bánh trái diễn ra hàng ngày ở chợ búa. Người vợ bán hàng, chồng con cầm đòn gánh giơ sẵn, đề phòng bị vồ. Dân đói bấp chấp, cứ lao vào vồ. Chiếc bánh cầm trong tay, đưa lên miệng nhai ngấu nghiến. Những chiếc đòn gánh phang túi bụi. Không biết đau. Cứ nhai và nuốt. Ăn xong cái bánh thì chết đòn. Chẳng ai kết tội sát nhân. Cơn đói giết người và người giết thả cửa. Nhà nước không bắt bỏ tù ai đánh những người cướp giật đến chết.
    Chợ búa vắng hoe vì tai nạn vồ cướp. Mua cái bánh đa nướng, giấu trong áo mang về, vẫn bị dân đói chạy xô tới, đập vào ngực vỡ nát cái bánh để xúm nhau nhặt từng mảnh vụn mà ăn. Bọn thằng Côn không dám đến khu Kỳ Bá nữa. Mấy lần, đem gạo, cơm, bánh cho mẹ con thằng Vọng, đều bị cướp giật. Khu Kỳ Bá chẳng còn gì để ăn chờ mùa lúa mới. Bao nhiêu cây chuối và củ chuối bị chặt và đào hết. Chó mèo không thấy tăm hơi đâu. Chắc là bị ăn thịt rồi. Vũ và Côn đều thương Vọng lắm. Chúng nó bàn cách nắm cơm mang tới nhà Vọng. Hai hôm nay, bọn thằng Côn không vào nhà Vọng vì chúng nó tin rằng gạo chúng nó mang cứu giúp Vọng còn đủ dùng. Nhưng cũng hai hôm nay, số người chết đói tăng lên gấp bội. Côn lo cho mẹ con Vọng quá.

Nó hỏi Vũ :
- Mày nghĩ được kế nào chưa ?
Vũ đáp :
- Chưa.
    Con nhà Luyến giục toáy. Thằng Lộc đòi dùng gậy đánh nhau với những người cướp giật. Vũ sốt ruột :
- Để im tao nghĩ kế.
Nó gõ ngón tay lên trán một lúc rồi reo to :
- Có kế đây.
    Lũ bạn nhao nhao :
- Kế gì, kế gì ?
    Vũ xoa tay :
- Chúng mình đóng cái hộp gỗ hai ngăn. Dưới đựng mười nắm cơm, trên bầy đá. Tao giả vờ kéo, túi quần tao nhét cái bánh chưng. Chúng mày cũng đem bánh chưng. Đến ngõ nhà thằng Vọng, chúng mình cho bánh rồi kéo cái hộp đá vào nhà nó thì hết bị cướp giật. Dân đói cướp đá làm khỉ khô gì !
    Côn khen Vũ rối rít. Chúng nó bắt tay vào việc cứu trợ thằng Vọng liền. Côn nhờ mẹ thổi cơm, nắm giùm nó. Vũ tìm gỗ đóng hộp. Luyến, Lộc, Long chạy về nhà kiếm bánh chưng, bánh dầy khô. Một tiếng đồng hồ sau, bọn thằng Côn đã kéo lê cái hộp gỗ chở đầy đá khỏi cống Kỳ Bá. Chúng nó hồi hộp. Ngực thằng nào cũng đập thình thình.
- Nhỡ họ cầm cái hộp họ ném tung lên thì sao hở, Vũ ?
- Tao đóng đinh chắc lắm. Hộp cơm nắm này, mẹ con thằng Vọng ăn dè được hai ngày. Có đứa nào gói muối theo không ?
- Có.
- Tao sợ quá.
- Sợ thì mày về đi, Lộc ạ !
Vừa tới ngõ nhà Vọng, Luyến nói :
- Hôm kia bị cướp giật ở chỗ này.
    Bỗng Lộc hét :
- Eo ơi !
    Nó nhắm mắt, chỉ tay. Vũ và Côn nhìn chỗ Lộc chỉ. Hai cái xác chết nằm bên nhau. Vũ   nói :
- Bịt mũi lại đi, thở bằng mồm nhé, tụi mày nhé !
Chúng nó rảo bước. Bốn thằng gặp thêm cả chục xác chết. Cứ vào sâu trong ngõ lại gặp xác chết nhiều hơn. Vũ bịt mũi chặt, giọng nó khàn khàn :
- Họ chết hết rồi.
    Vũ chạy. Chiếc hộp rớt đá ngổn ngang. Chúng nó đã đứng trước cổng nhà thằng Vọng.        Côn réo :
- Vọng ơi !
    Không có tiếng Vọng trả lời.
- Vọng ơi !
- Vọng ơi, chúng tao đem cơm cho mày, hôm nay không bị cướp giật đâu.
    Im lặng. Tiếng thằng Côn vang xa. Lộc xanh mặt :
- Hay thằng Vọng đã chết đói ?
Vũ cáu tiết :

- Chết đói cái củ “thìu biu” !
    Nó buông sợi dây kéo cái hộp, chụm hai bàn tay, gân cổ gọi :
- Vọng ơi ! Vọng ghẻ tầu ơi !
    Sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt năm đứa trẻ. Vũ đẩy cái cổng tre xiêu vẹo :
- Chúng mình vào đi, chắc nó ngủ say.
    Năm đứa ngại ngùng đi vào sân. Rồi chính nó mở tấm liếp. Vũ ngó trước. Nó quay ra  ngay:
- Mẹ thằng Vọng nằm co quắp trên ổ rơm chúng mày ạ !
    Côn hỏi :
- Nó đâu ?
    Vũ lắc đầu :
- Tao không thấy.
    Luyến và Lộc khênh cái liếp đóng cửa xích một quãng. Ánh sáng lùa vào gian nhà. Vũ nhắm mắt lại. Giọng nó lạc đi :
- Mẹ … nó … chết … rồi …
    Côn chạy xuống bếp. Nó lại réo :
- Vọng ơi !
    Lộc lắp bắp :
- Tao bảo nó đã chết, thằng Vũ không tin.
    Vũ quát :
- Nó không chết, thằng Vọng không chết …
    Vũ ôm mặt khóc hu hu. Côn khóc theo. Và năm đứa khóc nửc nở. Không có thằng Vọng ở nhà, nó đi đâu chết rồi. Mẹ nó đã chết đói, đang nằm co quắp trên ổ rơm. Chắc nó đi cướp cơm về cho mẹ ăn bị người ta đánh chết. Năm đứa trẻ nhìn nhau. Những đôi mắt sũng nước cùng long lanh hình ảnh thằng Vọng và cuộc đời hẩm hiu của nó. Đứng ngẩn ngơ một lúc, Vũ bước vào gần cái ổ rơm, kéo chiếc chiếu đắp lên xác mẹ thằng Vọng. Chúng nó ném quà bánh đem biếu Vọng quanh cái hộp cơm rồi lủi thủi ra về. Khuôn mặt chúng nhễ nhãi nước mắt.
18#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2009 20:40:31 | Chỉ xem của tác giả
Phần cuối
    Chết đói xong là chết no, chết dịch. Nhưng cơn ác mộng đã qua. Tỉnh lỵ lại mang cái vẻ bình thản muôn đời của nó. Vẻ bình thản đánh đai lấy cuộc sống người dân thị xã. Sóng gió đang nổi ở đâu xa lắm. Chứ ở thị xã Thái Bình, sóng ngầm chỉ xô giạt trong lòng một vài người. Hầu như, không ai muốn nhớ tới nạn chết đói mấy tháng trước. Dân Thái Bình chết cả mấy chục vạn người. Có làng bị chết đói hết.
    Côn thì không thể quên Vọng. Thằng Vọng cũng bị chết đói. Côn tưởng chừng gia đình nó có người chết đói khổ sở, đau đớn. Tháng rồi, dưới giàn hoa lý nhà thằng Vũ, Luyến buột miệng nói "Giá chúng mình rủ thằng Vọng về nhà chúng mình ở, chắc nó không thể bị chết đói” Cả Côn và Vũ đều ân hận. Dễ dàng thế mà Côn và Vũ không nghĩ ra. Thằng Vọng chết đói, sẽ chẳng bao giờ được leo lên vồng cầu Bo xem Nhật xúc đất, kéo xe bò. Nó sẽ chẳng bao giờ được thấy thầy Đàn, thầy Hoan tát sĩ quan Nhật hộc máu mồm giữa phố. Ta sắp đánh Nhật. Côn tin tưởng ngày thầy Đàn trở về Thái hiên ngang như Trần Quốc Tuấn trên sân khấu kịch của Hướng Đạo. Ngày ấy chắc vui lắm.
    Mùa hạ năm nay thật buồn tẻ. Hoa phượng vẫn nở nhưng mầu hoa không rực rỡ. Tại học trò đã nghỉ học trước hè, nghỉ từ tháng ba chết đói. Loài ve sầu rên rỉ mỏi miệng cũng chẳng ai thèm cảm xúc. Có lẽ, mùa hạ sang năm sẽ buồn tẻ hơn. Côn hồi tưởng những mùa hè năm xưa mà thương tiếc. Chắc chắn không còn những trận đá bóng sôi nổi với An Tập, trường Tầu. Vọng đã mang theo sân cỏ xuống đất sâu. Mất Vọng ! Bóng tròn hết quyến rũ đôi chân thằng Côn. Tại Nhật hết. Nhật sang Thái Bình gây nên bao điều khốn khó.
    Côn nắm quả đấm thụi lên mặt bàn. Bố nó ngồi đọc sách gần đó, ngạc nhiên :
- Con làm sao thế ?
    Côn rươm rướm nước mắt :
- Thằng Vọng chết đói, bố ạ !
    Bố thằng Côn gỡ cặp kính trắng, dụi mắt :
- Con nói cho bố nghe rồi mà …
- Phát xít Nhật làm nó chết.
- Bố dặn con, con chả chịu nghe lời bố. Con muốn Nhật bắt cả nhà mình giết chết à ?
    Thằng Côn đưa hai tay ôm đầu :
- Con biết hết chuyện.
    Bố nó buông rơi cuốn sách :
- Con biết chuyện gì ?
    Côn òa lên khóc :
- Con lớn rồi, con lớn rồi … Con biết ta sắp đánh Nhật, bố đọc giấy gì ở nhà thằng Vũ.
    Bốn nó đến gần chỗ nó ngồi, cầm tay nó :
- Con lớn rồi, bố không bảo con là trẻ con nữa. Nhưng nhiều việc con chớ nên biết tới.
- Con ghét Nhật. Thằng Vũ dám chửi Nhật lùn. Nó bảo ở Hà Nội người ta giết Nhật như ngóe. Dân Hà Nội cừ lắm, sao dân Thái Bình không cừ ?
- Dân Thái Bình sẽ "cừ”. Thầy con đã là một người "cừ”.
- Thầy con sắp đánh Nhật ?
- Ừ, thầy con đang đánh Nhật ở xa.
- Bao giờ thầy con đánh Nhật ở Thái ?
- Sắp sửa.

Bố thằng Côn dịu dàng :
- Con thấm nước mắt đi. Đã lớn rồi, nghe chuyện người lớn phải giữ kín, hiểu chưa ?
Côn rút khăn thấm nước mắt. Nó nhìn bố, mỉm cười.
- Thôi, con đi chơi đi.
    Côn chào bố. Nó chạy ra đường và đến nhà Vũ rủ Vũ lên cầu Bo. Nước lũ đã về. Chóng chê. Mới nắm ngoái, Luyến và Côn đứng đây nhìn nước lũ cuồn cuộn trôi ra biển.
- Con nhà Luyến, năm ngoái, đòi đóng bè chuối thả xuống cống Đậu ăn canh bánh đa của bác lang tặng mày đấy.
    Vũ phì cười :
- Xuống cống Đậu rửa bát à ? Ông chán cống Đậu từ lâu.
Côn kéo sát Vũ bên mình :
- Mày biết chưa ?
    Vũ thì thào :
- Biết gì ?
- Thầy mình sắp về Thái đánh Nhật.
- Thế hở ?
- Ừ, bố tao dặn đừng nói với ai.
    Vũ xăn tay áo :
- Tao sẽ đi theo thầy.
    Côn ghé miệng kề tai Vũ :
- Dân thị xã sửa soạn đánh Nhật. Thầy mình cầm đầu. Bố tao bảo đánh đến đít rồi.
    Vũ sướng rên, nhẩy cỡn :
- Tao phải trói một thằng, bắt kiến lửa bỏ lên bụng nó mới thích. Kiến lửa cắn rốn nó, nó giẫy đành đạch. Ông đứng ông múa mọi và "dzô tô nay, a ri ga tô”.
    Côn vung tay :
- Ông nhốt một thằng không cho ăn cơm để nó chết đói như thằng Vọng.
    Hai đứa trẻ mong đợi thầy chúng nó trở về Thái. Thầy chúng, chắc chắn, sẽ chở về những mộng ước ắp đầy những con mắt chúng. Hai đứa trẻ thị xã không muốn âm thầm sống trong cái vòng đai bình thản. Nó muốn thoát ra. Nỗi thèm khát của chúng bốc lộ rõ rệt. Bây giờ mới đúng lúc khung cảnh bình thản của tỉnh lỵ không thích hợp với chúng nó.
- Tao dắt thằng Nhật qua nhà con Thúy, tao đá đít, con Thúy sẽ phục lăn.
    Vũ vỗ vai Côn :
- Mày chắc con Thúy phục tao chứ ?
    Côn gật đầu :
- Nó vẫn phục mày.
    Nó hỏi Vũ :
- Mày lại nhà nó chưa ?
    Vũ thấy Côn thoáng buồn. Nó thúc khuỷu tay vào bụng bạn :
- Tao không đến đâu. Mày đến chơi với nó đi kẻo nó giận.
    Côn thè lưỡi liếm môi :
- Tao không thích chơi với nó nữa. Tao thề không thèm nói chuyện với nó.
    Vũ gặm nhấm móng tay :
- Mày buồn cười bỏ xừ đi ấy. Bây giờ mày thích cái gì ?
    Côn nín thinh. Nắng chiều chỉ còn thoi thóp trên các lùm cây bên kia sông. Dòng nước, tự nhiên, buồn bã. Như là nó chán chẩy xuôi ra bể. Nó muốn chẩy ngược về nguồn. Côn hướng mắt nhìn về phía xa. Gió thổi tung tóc thằng bé. Đôi mắt nó tròn to, long lanh một niềm ao ước. Lần đầu tiên, Côn trái lời Vũ. Côn không còn giống Vũ. Côn cũng chẳng giống Côn năm ngoái, năm xưa. Nó đứng đây, không tương tư tiếng hu hú, không nhớ những lần đóng bè qua sông. Phía xa, nó đang tưởng tượng có Thầy Đàn dạy bao nhiêu đứa trẻ yêu nước. Côn mơ hồ nghe tiếng nói của thầy. Và tình nó thương thằng Vọng dâng lên, đùn cay mắt nó.
- Bây giờ mày thích cái gì ?
    Côn quàng tay bá cố Vũ :
- Tao thích thầy mình về Thái.
    Vũ xiết chặt Côn. Nắng đã tắt hẳn. Gió thổi lộng. Hai đứa trẻ tỉnh nhỏ cùng đăm đăm trông về chốn trời xa. Nơi ấy, nhiều người sắp về. Và tỉnh lỵ sẽ hết thê lương, buồn tẻ.


Mùa Giáng Sinh 1968
(viết tại Phú Nhuận Gia Định)
Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Register

Quy tắc điểm

Phòng tối|iPhone|Archiver|G+|Youtube|Facebook|Twitter|Contact| Netdepviet.org

GMT+7, 25-6-2024 01:03 PM , Processed in 0.054776 second(s), 14 queries .

Powered by Discuz! X3.2

© 2006 Made with in Hanoi,Vietnam and Contents are published by all members

Trả lời nhanh Lên trên Trở lại danh sách