Quên mật khẩu
 Register
Xem: 11174|Trả lời: 1

Sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975

[Sao chép liên kết]
Đăng vào 29-4-2009 08:23:16 | Hiển thị tất cả tầng |Chế độ đọc
Sự kiện 30 tháng 4, 1975, thường được gọi là 30 tháng tư hay ngày giải phóng miền Nam (tên gọi tại Việt Nam) hay ngày miền Nam sụp đổ (trong báo chí Tây phương gọi là Sài Gòn sụp đổ, Fall of Saigon; ngày nay, tên gọi Ngày Quốc Hận 30 Tháng 4 hay Tháng Tư Đen cũng khá phổ biến trong cộng đồng người Việt chống Cộng ở hải ngoại), là sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập
Các sự kiện dẫn đến 30 tháng 4
Sau Hiệp định Paris tinh thần và khả năng của quân đội Việt Nam Cộng hòa suy giảm nghiêm trọng nhất là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate, vào tháng 8 năm 1974.

Sự cắt giảm hỗ trợ từ Hoa Kỳ

Sau khi người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà đã cắt giảm nhiều:

    *  1973: 2,1 tỷ USD
    * 1974: 1,4 tỷ USD
    * 1975: 0,7 tỷ USD

Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình "Việt Nam hoá". Khi dự điểm tâm với ông Thiệu vào sáng ngày 23 tháng Tám năm 1974 tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:

    Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo.

Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc hội:

    Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung Tâm Tài Nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, 1 trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc.

Sau này, trong tập hồi ký "Mùa Xuân Đại Thắng", Văn Tiến Dũng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã viết về động cơ thúc đẩy Bắc Việt và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn không thể thực hiện theo như ý muốn. Đó là vì "hoả lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu"

Diễn biến cuộc chiến

   Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm nhiều tiền cho chiến trường Việt Nam. Đầu năm 1975, sau hai năm ký hiệp định đình chiến, Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa huy động gần như toàn bộ lực lượng gần 1 triệu quân của mình , mở cuộc tấn công lớn trên toàn miền Nam Việt Nam, bắt đầu là ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa và là khởi đầu của những chiến dịch nối tiếp nhau.

Ngày 23 tháng Ba Tổng thống Thiệu nhận được thư của Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford.

        White House

        Ngày 22 tháng Ba, 1975

        Thưa Tổng thống,

        Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự huỷ bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.

        Biến chuyển này mang theo không hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì dây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết đinh chính số phận quí quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân VNCH sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.

        Riêng đối với Hoa kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.

        Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách huỷ diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua

        Sự quyết tâm của Hoa kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thoả ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một điều hết sức cần thiết.'

        Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt nam cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường.

        Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hoà.

        Kính thư,

        (kí) Gerald R. Ford

Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép".

Ngày 23 tháng 3, Huế rơi vào tay Quân giải phóng trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính tìm cách chạy thoát bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây và nã pháo. Trong 4 sư đoàn bộ binh của Quân lực Việt Nam cộng hòa, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 rút được. Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy.70.000 binh sĩ VNCH còn lại sau bị bắt làm tù binh.33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phú Cát cũng bị bỏ lại. Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có một trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố, không mấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự.Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ dây chuyền: Quảng Ngãi ngày 24 tháng 3; Qui Nhơn và Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam Ranh ngày 3 tháng 4.

Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng.


Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Quân giải phóng định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.

Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Mỹ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu đô la mà chính phủ Mỹ đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger và một số người khác đã hy vọng rằng nó có thể giúp Việt Nam Cộng Hòa lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục Bắc Việt đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với tổng thống Ford: "Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt ra khỏi Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó[12]. Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.

Ngày 20 tháng 4 quân phòng thủ bỏ Xuân Lộc rút lui. Ngày Xuân Lộc thất thủ, không còn gì để cứu vãn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn không còn phòng thủ từ xa nữa, Quân giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức, phía Bắc Việt đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với tổng thống Thiệu.

Tối ngày 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn từ chức dài trước Quốc hội, buộc tội Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam không chấp nhận nói chuyện với ông ta. Thời điểm 21 tháng 4 khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng "chìa khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy". Đêm hôm đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Cộng sản tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.

Để đảm bảo áp đảo chắc thắng Quân Giải Phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tầu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn với 5 quân đoàn.

17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.

Ngày 27 tháng 4, Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Quân giải phóng, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng[14] làm nhiều người chết và bị thương và nhà cửa đổ nát.

Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trừ bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt Khu Thủ Ðô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các chốt chận của Quân giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4/1975.

Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền-Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chận đối phương. '

Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật địch ra khỏi trận địa.
Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng tại tất cả các hướng, quân Giải phóng có thể đi ngay vào thành phố. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.

4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hỏa tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống Phi trường Tân Sơn Nhứt, phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và gây cho số người Việt đang tụ tập ở đấy để trốn chạy 1 sự hỗn lọan thực sự.

Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Martin phải di tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều càng tốt.

Một số sĩ quan người Việt đã tự bắn vào đầu để tự vẫn, người thì vì danh dự bị hoen ố trước thất bại, người thì vì lo sợ trước những nhục hình tàn bạo đang chờ họ trong những trại cải tạo của cộng sản.

Ở Sài Gòn và phần còn lại của Nam Việt Nam, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể sống sót dưới chế độ cộng sản hay tốt hơn là trốn chạy bằng đường biển mà không có 1 sự trợ giúp nào.

Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm ngoài khơi Thuỷ quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ. Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng trở nên hỗn loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải rất vất vả mới duy trì được trật tự, họ dùng sức mạnh thô bạo gạt phăng các bạn đồng minh cũ đang trong cơn hoạn nạn[cần dẫn nguồn]. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người bạn lâu năm của mình. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng[19]. Quân giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố 1 ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, họ đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người. Còn theo hồi kí của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh được đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.

Ngày 30 tháng 4

8 giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn giao chính quyền.

9 giờ sáng cùng ngày, đúng 1 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại Sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp kháng cự có tổ chức.

10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ và bị kẹt tại đó. Bùi Quang Thận - Đại đội trưởng, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Xe tăng 390 húc tung cánh cửa chính của dinh.

11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên.

Cùng lúc này, đại úy trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn. Tổng thống Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam).

Khoảng 12 giờ trưa, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thay mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.

Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có tắm máu trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng sau đó đã đưa ra con số 200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên về việc này, tác giả ghi thêm: "Những ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong tổng số dân là 20 triệu"

Thư đầu hàng và chấp nhận đầu hàng
Kết quả

Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:

    * Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài 30 năm. Việt Nam bắt đầu bước vào một thời kỳ mới.
    * Kết thúc sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này đã chứng tỏ sự thất bại của phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tại Việt Nam.
    * Chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp vào Việt Nam.[cần dẫn nguồn]
    * Trên phương diện quốc tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam với thắng lợi của Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đánh dấu sự thắng thế của phe Cộng sản trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả là một loạt các phong trào cộng sản và thân cộng sản thắng thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh hướng tới mục tiêu cộng sản.
    * Là điều kiện để thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại biểu Miền Bắc và Miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975, ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
    * Bắt đầu hiện tượng thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi vì các lý do chính trị hoặc kinh tế. Xem chi tiếti dân Việt Nam sau 1975. Khoảng 150.000 người đã ra đi năm 1975, trong đó có 140.000 người đi cuối tháng 4.[21]. Hàng trăm nghìn quân nhân thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa bị học tập cải tạo trong các trại tù cải tạo với thời hạn khác nhau từ vài ngày đến 10 năm.


Wikipedia
Đăng vào 30-4-2009 06:52:59 | Hiển thị tất cả tầng

Giải mã người mang mã số bí mật H.3

Không cần phải 30 năm, 35 năm, hay những dịp kỷ niệm chẵn ngày chiến thắng. Câu chuyện này được viết khi Quốc lễ 30 tháng Tư lần thứ 34 đang đến gần. Những chiến công của họ không cần bất kỳ ngày lễ nào để tôn vinh, bởi sự thật lịch sử không cần bất kỳ bàn tay nào tô hồng, đánh bóng. Bản thân họ, cuộc đời họ, chiến công của họ… đã tự toả sáng mãi muôn đời.
Câu chuyện này kể về 1 người đàn ông cao gầy, bệnh tật thường xuyên, giữ im lặng suốt quãng đời phục vụ cho Tổ Quốc từ những năm còn chìm trong lửa đạn cho tới ngày toàn thắng. Đến tận năm 2006, CIA vẫn còn phải đặt câu hỏi: Ông là ai?

Bài 1: Người giữ khoá bí mật ở Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà

Sài Gòn. Sáng 30/4/1975. Những góc thành lịch sử.

Năm đạo quân từ 5 cánh đổ về, rợp cờ giải phóng rầm rập tiến vào thành phố. Những con đường tấp nập hằng ngày giờ bỗng trở nên tán loạn. Từng tốp lính cộng hoà, có người chỉ còn chiếc quần xà lỏn, vội vã chạy ngang dọc mà không biết về đâu.
Tại Đại sứ quán Mỹ…
9 giờ sáng, khi tiếng xích xe tăng của quân giải phóng kéo sầm sầm trên đường phố Sài Gòn thì cũng là lúc chiếc máy bay di tản cuối cùng ngừng gầm rú ngay trên nóc toà đại sứ quán.

Trước làn sóng quân giải phóng đang tràn ngập đô thành, những người Mỹ còn lại trên mảnh đất này cũng rơi vào tình trạng hoảng loạn. Kenneth Moorefield – nguyên sĩ quan bộ binh - đã đẩy Graham Martin, vị đại sứ Mỹ vẫn còn đang trong cơn chấn động bàng hoàng, ra khỏi một trong những chiếc trực thăng cuối cùng để tự mình leo lên đó.
Cái nhìn của Moorefield về Sài Gòn giờ phút cuối thật kinh hoàng: “Hàng trăm người Việt Nam đổ ào lên những bức tường, cướp bóc kho hàng, phòng ốc, quầy bar. Một số người khác thì lái xe của sứ quán chạy lòng vòng như những kẻ điên khùng. Ở bên kia bức tường, cả đám đông người hát vang lời ca chống Mỹ, chào mừng chiến thắng đang tới gần của những người cộng sản...
Từ trên cao, tôi có thể nhìn thấy văn phòng của tuỳ viên quân sự Mỹ - DAO - ở Tân Sơn Nhứt - bốc cháy. Cả thành phố im lìm một cách đáng sợ. Chỉ toàn một màu đen đặc. Không động tĩnh, không đèn điện, không một cảm giác nào về những gì đang đến”.  
Trong giờ phút nguy cấp ấy, có bao nhiêu người rời khỏi Việt Nam mà không một lần giật mình hỏi: “Điều tồi tệ có thể đến là gì? Liệu Mỹ sẽ trở lại “trả thù” không, trên xứ sở nắng ấm tươi đẹp này?”
Tại Bộ Tổng tham mưu của Quân đội Việt Nam Cộng Hoà (BTTM)…
41 chiến sỹ đặc công biệt động Z28 (đoàn 316 đặc công) chia làm 2 mũi tiếp cận với cổng số 1 và cổng số 3. Mũi chủ công do Bảy Vĩnh (tên thật là Lê Văn Vĩnh - chúng tôi sẽ đề cập trong phần sau), mũi bảo đảm do Ba Đen phụ trách. Nhiệm vụ: Đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu - đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà – và chờ đại quân tiến vào.

Hình ảnh ngày toàn thắng khi xe tăng quân giải phóng húc đổ cổng dinh Độc Lập, chính thức nối lại 2 miền Nam - Bắc, đất nước thống nhất.
6 giờ sáng, mũi do Ba Đen chỉ huy giả lính cộng hoà, thâm nhập cổng số 1, đánh cầm chân lực lượng dù và thiết đoàn xe tăng địch, ngăn chặn việc địch chi viện cho BTTM. 2 chiến sỹ hy sinh tại chỗ.

7 giờ sáng. Mũi do Bảy Vĩnh chỉ huy lợi dụng lực lượng bảo vệ cổng số 3 sơ hở, sử dụng 3 xe bọc thép M113 lấy được của địch áp sát, khống chế rồi vượt qua cổng gác, chạy thẳng vào trung tâm BTTM. Toàn bộ lực lượng địch giơ tay xin hàng.

9 giờ 40’, cờ giải phóng treo cao trên cột cờ BTTM chế độ Sài Gòn. Việc đánh chiếm BTTM từ cổng số 3 không tốn một viên đạn.

11 giờ 45’, từ một góc quan sát trong căn phòng bé tí chứa hồ sơ tại BTTM, một người đàn ông ngoài 40 tuổi cao lênh khênh, gầy mảnh khảnh vẫn lặng yên chờ. Ông không chạy di tản như những chiến hữu khác, song cũng chẳng bỏ văn phòng thư ký của mình để tìm chỗ an thân.

Trong đôi mắt long lanh lạ thường của một người đã hàng trăm đêm mất ngủ cứ ánh lên nỗi mong chờ. Nỗi mong chờ đằng đẵng mấy thập kỷ, vậy mà đến giờ lại mang vẻ thản nhiên, thanh tĩnh lạ kỳ.

Trước đó, lúc 6 giờ sáng cùng ngày, chính mắt ông chứng kiến hình ảnh một đại tá Pháp tới báo tin cho 1 trung tá làm việc tại văn phòng Cao Văn Viên. Chỉ sau vài phút ngắn ngủi, viên trung tá cởi phăng quân phục ra, lấy súng ống quẳng vào cốp xe và chạy đi.

Một tiếng sau, Nguyễn Cao Kỳ bay trực thăng tới, vội vã đi bộ vào toà nhà chính chừng 5 - 10 phút, sau đó ra đứng chờ. Chờ một lúc thì chiếc trực thăng thứ 2 đến. Nguyễn Cao Kỳ khiêng 1 va li con cho lên máy bay. Ông còn nhớ trước khi leo lên trực thăng bỏ chạy, Nguyễn Cao Kỳ còn không quên ngoái lại trụ sở BTTM với ánh nhìn đầy tiếc nuối.
“Anh lính quèn” và mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến
… Sau giờ khắc mà hai miền nối lại, ngay tại chính trụ sở của Bộ Tổng tham mưu, có hai nhà tình báo anh hùng của cộng sản... chạm trán nhau. Một người là sĩ quan chỉ huy cánh quân biệt động - đại tá anh hùng Bảy Vĩnh, còn người kia là anh thượng sĩ nhứt “quèn” mang bí số H3.

Người bí mật ở Bộ Tổng tham mưu chế độ cũ đã cung cấp hàng loạt tin tình báo chiến lược, mà đến năm 2006, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Ông là ai?
Lúc đụng nhau, lính của “ông cộng sản” vẫn không quên dặn lại "tên địch" mà sau này họ mới hay là đồng chí của mình, rằng: “Ông ở đây coi khu vực này nghen”.
Lời dặn chỉ bấy nhiêu, nhưng người đàn ông đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc bàn giao xong xuôi. Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân VNCH cùng toàn bộ giấy tờ tại văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.
Người đàn ông cao hơn 1m70 mà nặng chỉ ngoài 40 kg đó thậm chí còn tự đi kiếm giùm mấy ông giải phóng lá cờ khác để thay, rồi lại trực tiếp trao chìa khoá, dẫn quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Chỉ khi ấy, ông mới thanh thản trở về nhà. Mệnh lệnh cuối cùng của thời chiến, nhiệm vụ cuối cùng của người lính ẩn danh: ông đã hoàn thành!

32 năm sau, trong 1 gian nhà nhỏ giữa Sài Gòn cũng vào cuối tháng 4, đại tá anh hùng Bảy Vĩnh nhớ lại khoảnh khắc đó: "Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc BTTM thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...".
Mãi về sau, người hỏi lối kẻ chỉ đường mới có dịp gặp nhau trong một tình huống hoàn toàn ngược lại: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo chiến lược (J22) - Bộ tham mưu quân giải phóng miền Nam. Chính Bảy Vĩnh - sĩ quan chỉ huy quân biệt động khi ấy, Cụm trưởng Cụm tình báo H67 (đơn vị anh hùng) – đã nhận ra ngay người đàn ông “phe địch” mà mình gặp khi đánh chiếm BTTM.
Cả 2 người, giờ đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy", đều cùng nghỉ ngơi với quân hàm Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang ngành tình báo quân đội Nhân dân Việt Nam, cùng sinh sống ngay tại chính thành phố mà họ đã chiến đấu, bằng cách này hay cách khác nhau, để giải phóng đất nước.
Và bây giờ thì tất cả đều đã là con dân của một quốc gia thống nhất!
Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm, (bí danh Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22) sau này còn xác nhận thêm một chi tiết thú vị nữa: "Khi tiến vào trung tâm, đồng chí Bảy Vĩnh đã gặp nội tuyến của ta, chuẩn uý văn phòng BTTM. Nội tuyến này còn động viên sỹ quan binh lính địch ra hàng".
Nhân vật nội tuyến, người đàn ông cao gầy, thượng sỹ nhất ở văn phòng BTTM... cứ được nhắc hoài đó chính là H3, người mà rất nhiều năm sau này, CIA vẫn không ngừng thắc mắc: Ông là ai?
Nguồn: Vietnamnet
Bạn cần đăng nhập để trả lời Đăng nhập | Register

Quy tắc tích điểm trong diễn đàn này

Archiver|Mobile|Youtube|Facebook|Twitter|Contact|Netdepviet.org

GMT+7, 13-11-2024 01:50 PM , Processed in 0.052983 second(s), 17 queries .

Powered by Discuz! X3.5

© 2001-2024 Discuz! Team

Trả lời nhanh Lên đầu trang Quay lại danh sách