Hãy chọn Truy cập mobile | Tiếp tục

Nét Đẹp Việt Nam

 Quên mật khẩu
 Register
Xem: 12055|Trả lời: 1

Nhã nhạc cung đình Huế

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 4-3-2009 11:10:23 | Xem tất |Chế độ đọc
Nha Nhac, meaning “elegant music”, refers to a broad range of musical and dance styles performed at the Vietnamese royal court from the fifteenth to the mid-twentieth century. Nha Nhac was generally featured at the opening and closing of ceremonies associated with anniversaries, religious holidays, coronations, funerals and official receptions. Among the numerous musical genres that developed in Vietnam, only Nha Nhac can claim a nationwide scope and strong links with the traditions of other East Asian countries. Nha Nhac performances formerly featured numerous singers, dancers and musicians dressed in sumptuous costumes. Large-scale orchestras included a prominent drum section and many other types of percussion instruments as well as a variety of wind and string instruments. All performers had to maintain a high level of concentration since they were expected to follow each step of the ritual meticulously.

Nha Nhac developed during the Le dynasty (1427-1788) and became highly institutionalized and codified under the Nguyen monarchs (1802-1945). As a symbol of the dynasty’s power and longevity, Nha Nhac became an essential part of the court’s many ceremonies. However, the role of Nha Nhac was not limited to musical accompaniment for court rituals: it also provided a means of communicating with and paying tribute to the gods and kings as well as transmitting knowledge about nature and the universe.

The events that shook Vietnam in the twentieth century – especially the fall of the monarchy and the decades of war – seriously threatened the survival of Nha Nhac. Deprived of its court context, this musical tradition lost its original function. Nevertheless, the few surviving former court musicians continue to work to keep the tradition alive. Certain forms of Nha Nhac have been maintained in popular rituals and religious ceremonies and serve as a source of inspiration for contemporary Vietnamese music.
source: unesco.org
 Tác giả| Đăng lúc 4-3-2009 11:25:08 | Xem tất

Nhã nhạc cung đình Huế

Ngày 7.11, Tổng Giám đốc UNESCO, ông Kiochiro Matsuura chính thức công bố trong buổi lễ được tổ chức tại Paris, UNESCO đã ghi tên 28 kiệt tác di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại lần thứ hai, trong đó có nhã nhạc Huế. Đây là di sản phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được công nhận vào danh mục này, ghi nhận thành quả của một hành trình 10 năm phấn đấu, chuẩn bị không mệt mỏi của Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế.
Dàn Nhã nhạc cung đình Huế

Ban nhạc cổ truyền đầu tk 20
       
Dàn nhạc cổ điển Huế đầu tk 20

Đội tiểu nhạc của Nhạc cung đình Huế biểu
diễn tại cung Diên Thọ của Hoàng Hậu
Nam Phương với sự có mặt của hai
nghệ nhân Lữ Hữu Thi và Lữ Hữu Cử
       
Ban nhạc cung đình cuối tk 20
       
Dàn đại nhạc của Nhã nhạc cung đình
Huế những năm 60

Dàn nhạc những năm 60
       
Ban nhạc cung đình đang biểu diễn
Nhã nhạc (~năm 90 )
       
Ban nhạc cung đình Huế những năm 90

Dàn nhạc cung đình Huế (Festival Huế 2000)

Dàn nhã nhạc cung đình Huế

Dàn nhạc cung đình Huế biểu diễn trước Điện Thái Hòa



Biểu diễn tại Hội trường lớn của UNESCO
đêm 31/1/2004 nhân buổi lễ trao bằng
Di sản văn hóa phi vật thể là NNCĐH
cho Việt Nam
*** Tham khảo bài viết của giáo sư Trần Văn Khê
Từ năm 1963, khi Cố Giáo sư Nguyễn Hữu Ba và tôi, được sự tài trợ của Viện Quốc tế Nghiên cứu âm nhạc với phương pháp đối chiếu tại Tây Bá Linh, nhờ lời giới thiệu nồng hậu của Nhà Nhạc học Alain Daniélou, lo việc ghi âm, chụp ảnh, chọn lọc, phân tích tư liệu về Nhạc cung đình Huế, viết lời giới thiệu để thực hiện dĩa hát về ca nhạc Huế trong đó có mấy bản nhạc cung đình, do hảng dĩa Barenreiter-Musicaphon phát hành tại Tây Đức và trên Thế giới trong loạt dĩa mang nhãn hiệu UNESCO.số   BM 30 L. 2022. Dĩa hát đó được Giải thưởng lớn tại Tây Đức, Deutscher Schallplatten Preiss năm 1969. Và tiếp theo năm sau, lại được thêm một Giải thưởng lớn của Hàn lâm Viện dĩa hát Pháp (Académie du disque français ) Giải thưởng lớn về Dân tộc nhạc học năm 1970. (Grand Prix du  Disque : Prix d'Ethnomusicologie)

            Vậy mà Unesco chưa để ý đến Nhạc cung đình Huế. Khi ông Tổng Giám đốc Unesco, Amadou M. M'bow thăm Huế năm 1981, có dịp xem một chương trình ca múa nhạc cung đình Huế, ông rất xúc động sau khi xem tiết mục "Lân mẫu xuất lân nhi" . Tôi ngồi bên ông và nói nhỏ với ông; " Chúng tôi vô cùng cám ơn Ông đã lên tiếng kêu gọi thế giới giúp Việt Nam bảo vệ và trùng tu cung điện,  những di tích lịch sử và văn hoá ở Huế. Nhưng cung điện chỉ là cái xác của Huế. Còn cái hồn của Huế là thi ca âm nhạc vũ điệu kịch nghệ của Huế. Ông có nghĩ đến việc bảo tồn di sản văn hoá  đó không.? Thì ông trả lời rằng:" Chưa nghĩ đến. Nhưng sẽ phải nghỉ đến". Rồi ông về hưu.

Bao nhiêu lần tôi có nhắc đến việc ấy trong nhiều hội nghị, nhưng mãi đến tháng 6 năm 1993, tại Unesco có một cuộc họp quốc tế để bàn về vấn đề bảo tồn di sản phi vật thể. Hơn 30 nước tham dự. Anh Đào Viết Trung thành viên Ủy ban quốc gia Unesco của Việt Nam, từ Hà nội sang dự và đưa ra chương trình bảo tồn di sản phi vật thể vùng Huế và của 54 sắc dân tộc thiểu số miền Thượng Việt Nam. Hôm đó Giáo sư Georges Condominas và tôi có được Unesco mời tham dự. Hai chúng tôi hết sức ủng hộ và binh vực dự án của Việt Nam và yêu cầu Unesco tổ chức tại Việt Nam hai cuộc hội thảo quốc tế để thảo luận về các vấn đề nói trên. Lời tham luận của chúng tôi có
sức thuyết phục mãnh liệt. Bà Gobeil chủ toạ phiên họp đã không ngần ngại khen rằng hai bài tham luận "trên cả tuyệt vời" đó làm cho dự án của Việt Nam được sắp vào hạng " tối  ưu. Và bà nói đùa rằng Đó là một "siêu dự án".

Năm đó Unesco đã bắt đầu tổ chức hai Hội nghị quốc tế: một về "dân tộc thiểu số trong nước Việt Nam" tại Hànội, do Giáo sư Georges Condominas chủ toạ, và Hội nghị quốc tế về Di sản văn hoá vùng Huế tại Huế, do tôi chủ toạ. Năm đó Hội nghị đã đưa ra nhiều nghị quyết  :" Ưu tiên thực hiện việc bảo tồn và phát huy Nhạc cung đình Huế; và tiếp theo Nhạc Phật giáo Huế, và sau đó truyền thống âm nhạc dân gian trong đó có nhạc Hầu Văn Hòn chén ". Cậu Jacques Lemoine, đại biểu Pháp hứa sẽ vận đông chánh phủ Pháp ủng hộ chương trình bảo tồn nhạc cung đình Huế. Nhưng hai Giáo sư Nhựt bổn Yamaguti và Tokumaru đã đưa ra một chương trình cụ thể chia ra làm ba giai đoạn:

1.-Mời một đoàn Ca vũ nhac cung đình Huế tham dự Nhạc hội Tokyo Hè năm 1993. Và nhân dịp đó Đài Truyền hình quốc gia Nhựt bổn NHK đã dựng một chương trình rất đăc sắc về Nhạc cung đình Huế chiếu trên các màn ảnh nhỏ của toàn quốc Nhựt bổn.Đoàn do La Cẩm Vân điều khiển và đã gây tếng vang rất tốt trong giới nghiên cứu Nhạc cung đình châu Á

2 Tổ chức một đoàn nghiên cứu Nhạc cung đình Huế và trong dịp đó ghi âm ghi hình với phương tiện hiện đại các tiết mục cơ bản của Ca Vũ nhạc cung đình Huế. Tôi được mời làm Cố Vấn đặc biệt cho Đoàn và Toyota Foundation đã tài trợ chuyến đi nghiên cứu trên thực địa ấy năm 1995.Đoàn dã quay nhiều cuốn phim video rất đẹp về ca múa nhạc cung đình Huế để tàng trử tại trường Đại học Osaka và có mấy cuồn chép lại cho Việt Nam.

3.- Sau khi đồng ý với quan điểm của tôi " ghi âm giữ lại những loại nhạc mà chúng ta sợ sẽ mất đi, thì rất tốt, nhưng dó chỉ là bảo vệ tiêu cực; làm sao gây lại sức sống bằng cách tìm chức năng và chỗ đứng mới cho loại nhạc đang sợ bị mất, mới quí hơn, vì bảo vệ cách đó là bảo vệ tích cực "hai Giáo sư Nhựt đã xin được tài trợ của Japan Foundation để tổ chức một trường tại Huế , "một Đại học Nhã Nhac" để đào tạo diễn viên và nhà nghiên cứu nhạc cung đình. Và đó cũng là một trong những điều kiện tất yếu để được Unesco xem xét hồ sơ của Việt Nam trong việc xin Unesco công nhận Nhạc cung đình là một kiệt tác phi vật  thể và truyền khẩu của nhân loại.

Lẽ tất nhiên muốn được nhìn nhận như vậy, trước hết Nhạc cung đình phải có một giá trị rất cao về phương diện lịch sử cũng như về nghệ thuật.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng tuy được sử dụng ở trong cung đình,việc sáng tạo và biểu diễn nhạc cung đình đều do những nhạc sĩ, nghệ sĩ xuất thân từ trong dân gian, nhờ có tay nghể cao mà được sung vào cung để phục vụ cho triều đình.

Về mặt lịch sử, chưa có một bộ môn âm nhạc nào được ghi vào sử sách Việt Nam nhiều như Nhạc cung đình: "Đại Việt sử ký toàn thư ", "Khâm định thông giám Việt sử cương mục "," Lê triều hội điển ", "Lịch triều hiến chương loại chí "và đặc biệt nhứt trong" Khâm định Dại Nam Hội điển sự lệ ", sách sử  trong  nước và cả nước ngoài như " Khâm Định Đai Thanh hội điển sự lệ " của Trung quốc, và bài viết bằng tiếng Pháp trong nhiều tập của " Tạp chí nhửng Người bạn của cố dô Huế "( Bulletin des Amis du Vieux Huế.)
Về mặt nghệ thuật:

1.-Nhạc khí dùng trong nhạc cung đình rất đẹp trong hình thức, đóng ráp kỹ, chạm trổ khéo, đầy đủ màu âm, có tiếng kim, tiếng thổ, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng, tiếng đá, tiếng da, tiếng mộc

2.- Dàn nhạc đa dạng: Đại nhạc gồm Đại hồng chung, đai cổ,  trống võ, bồng, mõ, thanh la, chập choã, sinh tiền, kèn, nhị.Tiểu Nhạc hay Nhã nhạc có đàn dây tơ: đàn nguyệt (2 dây), đàn tam (3 dây) đàn tỳ bà (4 dây) đàn nhị (2 dây có cung kéo), có 2 sáo trúc, trống bảng một mặt, tam âm la ( 3 thanh la nhỏ ) sinh tiền.

Còn Ty cổ, ty chung, Ty khánh. Huyền nhạc gồm nhiều nhạc khí chỉ chưng bày mà không diễn tấu trong các lễ lớn như Tế đàn Nam Giao.

3 Việc thành lập những dàn nhạc không quan tâm đến số lượng mà đặt trọng tâm vào chất lượng, và sự phối hợp màu âm: Trong dàn Nhã nhạc, khi các nhạc công hoà tấu mà ta vẫn nghe rõ tiếng của từng cây đàn: tiếng chững chạc, trang nghiêm của đàn nguyệt,  tiếng chuyền tiếng phi bay bướm của tỳ bà, tiếng trong vắt, vuốt ve " nên lời dịu ngọt " của đàn nhị, tiếng đục khi vê khi khảy của đàn tam, tiếng nỉ non vi vút  của hai chiếc sáo trúc, tiếng kim của tam âm la, tiếng mộc của sinh tiền, tất cả nhạc khí ấy đồng theo tiếng nhịp của trống bảng, khi khoan khi nhặt, khi vào nội phách, khi ra ngoại phách, tấu lên 10 bài Ngự từ nhịp điệu khoan thai của mấy bản Phâm tuyết, Nguyên tiêu  lần lần dồn dập của mấy bài Hồ Quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây Mai, Kim Tiền, rộn rã từ Xuân phong, qua Long hổ, đi đến náo nhiệt như tiếng vó ngựa trong bài Tẩu Mã,

4. Thang âm điệu thức đa dạng, tiết tấu phong phú, bài bản dồi dào.

5. Công dụng, chức năng đa dạng: Khi thì là nhạc lễ, trong các tế Giao, tế miếu, trong những buổi đại triều, thường triều, khi là loại thính phòng trung cung chi nhạc, đàn cho vua chúa triều thần nghe chơi , lúc lại là những điệu nhạc giúp vui trong yến tiệc, phụ hoạ cho các điệu múa, cho những vở tuồng hát bội

6. Nhạc công, nhạc sĩ, các nghệ sĩ đàn ca, múa, hát đều có kỹ thuật rất cao vì chỉ triều đình mới có khả năng tài chánh, quyền lực chánh trị để qui tụ nhiều tài năng từ khắp nơi trong đất nước, có thể tạo điều kiện cho các nghệ sĩ ấy có thời gian và phương tiện trau giồi nghệ thuật để trở nên những nghệ sĩ cao tay nghề, sáng tác dồi dào và biểu diễn tinh vi.

Bản thân của Nhạc cung đình đã có những đặc điểm về mặt lịch sử và nghệ thuật. Nhưng dựng một hồ sơ thoả mãn được các yêu cầu của Unesco không đơn giãn. Và chúng tôi phải ghi công Bà Noriko Aikawa rất lớn trong việc nầy. Lẽ tất nhiên là các chuyên gia Việt Nam đã chịu khó, bền tâm, kiên trì thâu thập các tư liệu về lịch sử, hình ảnh, dĩa hát, băng ghi âm, phim đen trắng, phim video, để giới thiệu một cách có hệ thống, mạch lạc, khoa học trong một hồ sơ trên 100 trang thuyết trình, 118 ảnh tư liệu, 2 cuốn băng video các băng ghi âm thể hiện từng loại nhạc cụ như ông Phan tiến Dũng đã nói trong bài phỏng vấn ông của báo Tuổi trẻ. Nhưng công việc đó chúng
ta chưa đủ kinh nghiệm. Nhờ Bà Nortiko Aikawa sang tận Huế, gặp các chuyên gia Việt Nam, xem các tiết mục nhạc cung đình, góp ý kiến để bổ túc hồ sơ, để  tham khảo ý kiến của các Giáo sư Nhựt bổn Yoshihiko Tokumaru , Giáo sư Đại Hàn Kwon Oh Sung, những người đã có kinh nghiệm giới thiệu thành công hồ sơ của Nhựt bổn và Đại Hàn trong lần công bố về kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại 2 năm trước của Unesco. Bà thường trực liên lạc với tôi, không ngại cho chụp hình cả hồ sơ của Việt Nam, cho người mang tay tận nhà tôi ở ngoại ô Paris, vì tôi di chuyển rất khó khăn, và qua điện thoai đã thảo luận trong chi tiết những điểm ghi trong hồ sơ, và
chỉ chuyển đến Ban Giám khảo, một hồ sơ Nhã nhạc Việt Nam khi bà xét là  đầy đủ, vững vàng trong nội dung lẫn hình thức. Và các bạn Việt Nam cũng tận tình, chịu khó sửa chữa bổ sung mấy lượt. Trong nước lại có những công trình bảo tồn nghiên cứu về nhạc cung đình của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế. Phải có rất nhiều đặc điểm phải được chứng minh đầy đủ, hồ sơ mới được chấp nhận, xem xét và đánh giá, mà hôm nay chúng tôi chỉ nêu ra một so nhỏ.

Chúng ta rất vui mừng, phấn khởi khi được thế giới công nhận Nhạc cung đình Việt Nam là một "kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu" của nhân  loại. Đúng như lời của ông Phan tiến Dũng đã nói: "Giữ gìn danh hiệu cao quý đó còn gian nan hơn "

Riêng chúng tôi, từ lâu đã lên tiếng bảo tồn vốn cổ, không phải chỉ trong truyền thống âm nhạc Việt Nam mà của nhiều nước trên thế giới. Bảo tồn vốn cổ không phải là "nệ cổ" Phát triển vốn cổ không phải cùng nghĩa với công việc đổi mới một cách vô ý thức. Chúng tôi đã thường nói:

"Di sản văn hoá của Cha Ông chúng ta để lại có bề dầy của lịch sử,  chiều sâu của nghệ thuật. Chúng ta nên vô cùng thận trọng trong việc giữ gìn và nhưt là trong công việc "phát triển."Đừng để cho lòng nhiệt tình của chúng ta bị danh từ "hiện đại " "đưa chúng ta đi đến chỗ lòng muốn làm cho đẹp cho hay hơn xưa, làm giàu cho vốn cổ, mà thật sự làm "biến chất" cái hay của truyền thống có khi đi đến chỗ phá tan truyền thống, làm mất bản sắc dân tộc và rơi vào mảnh đất ngoại lai ".
(c) Trần Văn Khê Paris, 12/11/2003
Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Register

Quy tắc điểm

Phòng tối|iPhone|Archiver|G+|Youtube|Facebook|Twitter|Contact| Netdepviet.org

GMT+7, 29-3-2024 06:41 AM , Processed in 0.020409 second(s), 18 queries .

Powered by Discuz! X3.2

© 2006 Made with in Hanoi,Vietnam and Contents are published by all members

Trả lời nhanh Lên trên Trở lại danh sách